(Gửi anh chị Đỗ Hữu Nho và gia đình Đánh dấu một năm cháu Uyển Tiên qua đời)
Tôi sửa soạn đóng hai cánh cửa nhà thiêu để ra về, thì một người đàn ông trong nhóm người đi đưa đám tang quay lại hỏi tôi.
– Khi nào thì lấy tro được?
– Khoảng 8 giờ sáng mai, tôi sẽ tới đây để lo công việc đó.
Người đàn ông chào tôi, rồi hấp tấp đi về phía nghĩa trang theo đám người đang đi về hướng đó. Sau khi đưa quan tài vào nhà thiêu, mọi người rủ nhau đi xem nơi hũ tro sẽ được đặt xuống. Nơi cây cỏ, đất sỏi được chăm sóc, cắt xén thành một khu vườn thật đẹp. Có thác nước róc rách, vài nhịp cầu gỗ và những tảng đá để rải rác; những tảng đá đã được khắc tên, cho biết bên dưới có một hũ tro nằm tĩnh lặng, những tảng đá để trống là nơi đó chưa có tàn tro nằm xuống. Đó là một ngôi vườn quá đắt cho người còn sống mua cho chính mình, nhưng với người qua đời, hình như người sống không nỡ đắn đo với người đã mất. Người sống như thấy mình có bổn phận làm cho người chết trên cả những điều cần thiết.
Sáng hôm sau, tôi tới nơi, thì người đàn ông đó đã có mặt. Tôi hỏi, thì được biết ông dậy thật sớm, rời nhà từ sáu giờ sáng vì sợ kẹt xe. Tôi hỏi tiếp:
– Ông liên hệ thế nào với người qua đời này?
– Tôi là cha của cô ấy.
Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ người cha. Ông khoảng ngoài sáu mươi, nhưng có lẽ nhiều tuổi hơn, tôi đoán thế, vì người Á Đông họ thường trẻ hơn tuổi thật của họ. Tóc ông hoa râm, hai con mắt buồn buồn (làm sao mà vui được). Tôi nói với ông.
– Thật ra tôi không được phép cho ông vào, nhưng thôi ông đã đến, thì vào đây xem tôi làm việc.
Anh ta mở khóa cánh cổng nhà thiêu, cha nghe tiếng chìa khóa tra vào ổ, khe khẽ như tiếng động phát ra từ một cái cuống họng yếu ớt của con và tiếng kêu lên của bản lề, khi cánh cửa hẹp mở ra nghe như tiếng mẹ con hay thở dài. Anh ta chắc không để ý đến những tiếng động quen thuộc đó. Cha theo anh vào hẳn phía trong. Gian buồng này, ngày hôm qua cha chỉ nhìn được một phần ở phía trước, nơi đặt chiếc lò thiêu.
“Buồng không rộng lắm,” anh ta nói.
Cha đứng xích qua một bên khi anh ta cầm chiếc cây dài bằng sắt, móc kéo cái khay trong lò thiêu ra, có lẽ anh ta sợ cái cây đó sẽ đụng phải cha.
Chiếc khay kim loại có chiều dài và chiều ngang của chiếc áo quan được kéo ra. Cha không còn nhìn thấy chiếc áo quan có thân xác của con gái cha nằm trong đó ngày hôm qua nữa, thay vào đó là một lớp tàn tro dầy khoảng một gang tay. Ôi, mấy chục năm con làm người có bao giờ cha thử đo thân con trưởng thành bằng gang tay mình không nhỉ? Cha chăm chú nhìn xuống cái mầu xám tro than lạnh lẽo đó, cố hình dung ra vóc dáng của con.
Tôi bắt đầu công việc của mình. Tôi tôn trọng theo dõi sự xúc động trên mặt của người cha hiện diện và sự tĩnh lặng của người con đã chết. Tôi biết, cả hai đang quan sát việc làm của tôi. Tôi bắt đầu gắp những mảnh kim loại lớn của áo quan như bản lề ra trước, để vào một nơi, sau đó tôi dùng một dụng cụ khác bằng nam châm, rà rà trên mặt phẳng của cả khay tro để hút nốt những chiếc đinh, những con ốc mà tôi chưa gắp ra hết. Tôi gạt tất cả những cái đinh vừa hút được vào với đống bản lề.Người cha tiến gần đến cạnh tôi, hai chúng tôi cùng cúi xuống cái khay đựng cả tấm hình hài người phụ nữ đã thành tro bụi.
Anh ta nói chậm rãi, tiếng anh ta đều đều không cảm xúc nhưng cũng không lạnh lùng, bằng những dẫn giải nghề nghiệp của anh ta, cha biết: áo quan bằng gỗ quý như chiếc nôi cuối đặt con vào, quần áo lụa là chọn mãi cho con, chiếc khăn tang quấn trên vầng trán con để trả hiếu mẹ cha còn sống, cành hoa hồng thơm ngát đặt nằm cạnh con, và ruột gan, da thịt con. Tất cả, đã bốc hơi trong sức nóng cao độ (1,400-2100.F) nung con trong thời gian gần hai tiếng. Bây giờ phần còn lại chính là tàn tro của xương cốt. Trong chiếc khay này, cha vẫn nhìn thấy những mảnh xương chưa tan hẳn, chúng có mầu trắng xám, trông như những mảng mây cha thường thấy vào những buổi chớm thu, chúng trông cũng giống như những mảnh san hô nhỏ và xốp con đã nhặt được ở ngoài bãi biển vào những mùa hè của thời thơ dại ở quê nhà.
Ôi con! Ôi mây mùa thu và san hô mùa hè của cha mẹ.
Tôi cúi xuống chỉ cho người cha những chấm đỏ tìm thấy tụ lại trên những mảnh xương chưa tan hết. Những chấm này thật hiếm hoi, không ai hiểu tại sao lại có. Người Á Đông tin là chỉ ai có một đời sống thánh thiện, tốt đẹp mới có những vệt son này lưu lại trên xương. Bổn phận của tôi là nhặt những mảnh xương này, thận trọng bỏ từng mảnh xương vào một cái máy xay nhỏ và tán ra như bột để trộn lẫn vào phần tro than.
“Với những người bơ vơ, tôi xin làm người che chở
Với kẻ lữ hành tôi xin làm người hướng đạo
Xin được là thuyền, là cầu, là lối qua
Cho người muốn đến bờ bên kia
Mong sao cho đau khổ của mọi sinh vật
đều hoàn toàn chấm dứt” (1)
Cha đứng nhìn anh ta gắp những mảnh xương như mây mùa thu, như san hô của biển mùa hè bỏ vào máy, anh ta quay lại nhìn cha, có ý hỏi cha có muốn giữ lại một mảnh nào không? Cha suy nghĩ giữa có và không? Cuối cùng cha không giữ lại mảnh nào, để cho con đủ nguyên vẹn cốt xương đi vào lòng đất. Anh ta xay, như xay cả đất trời hơn bốn mươi năm tích lũy trong hình hài con gái của cha, như xay chính xương thịt của cha, như xay tình yêu thương gia đình, tình mẫu tử, tình chồng nghĩa vợ của con. Cuối cùng, anh ta có được một vốc hạt tinh tuyền trộn lẫn vào nắm tro than bàng bạc. Tất cả được trút vào một cái bao đã có sẵn và tên con đã được dán vào.
Cha nhớ chồng con đã tháo chiếc vòng ngọc ở tay con trước khi hoả thiêu, chiếc vòng không bao giờ còn tìm thấy cổ tay nó đã từng ôm ấp. Cha thấy trong khay có một mảnh nhỏ, không biết làm bằng gì mà không bị đốt cháy, có hình dạng như một chiếc khoen nhỏ, có lẽ đó là một vật đã gắn trên ngực con, để nhân viên y tế chuyền thuốc vào thân thể. Cha giữ lại mảnh này giống như chiếc vòng ngọc. Cả hai thứ này đã cùng chia sẻ những giờ cuối với con. Chúng được gìn giữ như di vật của con để lại cho gia đình.
Người cha đó đã ra về, sau khi chứng kiến công việc làm của tôi. Ông không hỏi nhiều, và tôi cũng cắt nghĩa rất ít. Tất cả việc tôi làm đối với người cha đó là một nghi lễ thiêng liêng. Trong gian buồng hoàn toàn im lặng, chỉ có ba chúng tôi. Tôi chăm chú làm việc. Cúi nhìn khay tro, tôi không biết trên mặt ông có nước mắt hay không, nhưng tôi nghe được tiếng lệ chẩy róc rách trong lồng ngực ông, tôi nghe được tiếng cựa mình, tiếng thì thầm của những mảnh xương đã cháy thành tro, tôi nghe được cả tiếng vỗ về của chính tôi cho nàng, khi tôi chạm tay vào tro than đó. Sau cùng, tôi cẩn trọng đặt nàng thêm một lần nữa vào trong cái hũ có gắn sẵn tên nàng.
Tôi nhìn khuôn mặt người cha lần chót trước khi chia tay. Tôi thấy mặt ông tiều tuỵ và phờ phạc. Tôi biết ông đau khổ lắm. Tôi muốn gửi đến ông mấy lời:
“Nỗi đau buồn là một vết thương cần được chú ý và hàn gắn. Hàn gắn nỗi đau buồn có nghĩa là đối mặt với nó công khai thẳng thắn, bộc lộ và phóng thích trọn vẹn nó, chấp nhận nó kéo dài bao lâu nó cần, để cho vết thương lành lại. Thường ta cứ tưởng rằng một khi công nhận nỗi đau buồn, chắc ta không thể nào chịu nổi. Sự thật thì nỗi đau khổ được bộc lộ ra sẽ có lúc đi đến kết thúc. Đau khổ mà không bộc lộ được sẽ kéo dài bất tận” (2)
Cánh cửa nhà thiêu đóng lại sau lưng, người cha lặng lẽ ra về. Ông lê gót ra chỗ đậu xe, lòng tràn ngập hình ảnh con, ông ngửa mặt lên bầu trời, ông thấy từng cụm mây trắng đang bay tản mác về nơi vô định, ông đưa bàn tay vuốt mặt mình.
Thôi con, mây trắng bay đi nhé.
Trần Mộng Tú
Ghi chú: 1 và 2, trích Tạng Thư Sống Chết của Sogyal Rinpochi – Trí Hải dịch