VÌ SAO CHỢT TẮT
Viết cho một người nằm xuống, Nhạc sĩ NGUYỄN VĂN ĐÔNG
*TRANG LUÂN
Gần đây anh có nghe tin gì ở Việt Nam không?” “Cả tuần lễ nay tôi bận quá, nên chẳng có thì giờ để theo dõi tin tức! Còn anh? Chắc anh có nhiều tin mới lạ lắm thì phải?” “Có chứ! Nhiều lắm. Nhưng sốt dẻo nhất vẫn là tin nhạc sĩ Nguyễn văn Đông mới vừa qua đời ở Sài Gòn.” “Anh nghe tin này ở đâu vậy?” “Cần gì phải nghe ở đâu anh, tôi cứ vào Youtube thì chuyện gì mà chẳng có ở trong đấy.”
Gần đây anh có nghe tin gì ở Việt Nam không?” “Cả tuần lễ nay tôi bận quá, nên chẳng có thì giờ để theo dõi tin tức! Còn anh? Chắc anh có nhiều tin mới lạ lắm thì phải?” “Có chứ! Nhiều lắm. Nhưng sốt dẻo nhất vẫn là tin nhạc sĩ Nguyễn văn Đông mới vừa qua đời ở Sài Gòn.” “Anh nghe tin này ở đâu vậy?” “Cần gì phải nghe ở đâu anh, tôi cứ vào Youtube thì chuyện gì mà chẳng có ở trong đấy.”
Anh bạn tôi ngừng lại vài giây rồi nói tiếp: “Theo người nhà cho biết, ông ra đi rất nhẹ nhàng, êm ả. Ông trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Chợ Rẫy, vào lúc 4 giờ 30 ngày 26 tháng 2 năm 2018. Hưởng thọ 86 tuổi.”
Đấy là lời của anh bạn nói với tôi như thế. Cái tin đến thật quá đột ngột, quá bất ngờ. Cái tin làm cho tôi giật mình, ngẩn ngơ rồi ngồi thừ ra, bất động ở trên ghế. Tôi thầm gọi tên ông – Nguyễn Văn Đông. Ba chữ Nguyễn Văn Đông hầu như gắn bó, dính chặt với những tuyệt phẩm nổi tiếng của ông, tiêu biểu như Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Phiên Gác Đêm Xuân, Sắc Hoa Màu Nhớ, Hải Ngoại Thương Ca … Những nhạc phẩm nói trên đã thấm sâu vào tâm khảm của mọi tầng lớp khán giả ở miền Nam.Ông không những là sĩ quan cao cấp trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, mà cũng là một tên tuổi lớn của nền âm nhạc ở miền Nam trước năm 1975. Ông đã ra đi. Thật sự đã ra đi. Nhắm mắt, xuôi tay, bỏ lại cái quê hương tạm bợ đầy muộn phiền cay đắng này, để bước sang cuộc hành trình lạ lẫm, mới mẻ khác! Cuộc hành trình đi về với thế giới huyền ảo, xa xăm. Cái thế giới của trầm hương, yên tĩnh. Của an hòa, của hư vô, của vĩnh cửu. Cái thế giới mà ở đấy chỉ thấy toàn là những hoa thơm cỏ lạ, cùng tiếng nhạc khúc trầm bổng, réo rắt tấu lên bản trường ca bất tận.
Sự ra đi của ông đã để lại cả cõi trống vắng cùng vô vàn nỗi tiếc thương cho người bạn đời từng sát cánh bên ông. Từng san sẻ với ông qua những ngọt, bùi, đắng, cay, tê tái ở tại đời sống này. Bỏ lại cả bạn bè, cả họ hàng thân thuộc, cùng biết bao nhiêu lớp người đã mến mộ ông qua những nhạc phẩm giá trị, sâu sắc mà ông đã để lại cho cõi trần thế đầy muộn phiền, tê tái này. Từ khi nghe tin ông nằm xuống, chẳng ngày nào mà không thấy Email hiện ra ở trên máy.
Ngày nào cũng có mấy lời phân ưu cùng ít dòng chia buồn dành riêng gia đình và không quên cầu chúc cho ông sớm được về với chốn bồng lai tiên cảnh. Vào Youtube anh sẽ thấy, còn có rất nhiều bài viết nói về ông, ca tụng ông, cho ông là tấm gương sáng, là người lính nặng nợ với núi sông.Người nghệ sĩ với tay súng, tay đàn.
Ngoài ra, người ta còn đề cập đến cả về sự nghiệp quân sự sáng giá của ông. Những thành tựu rực rỡ trong lãnh vực âm nhạc cũng như cuộc sống thầm lặng mà ông đã khép kín trong suốt ba mươi mấy năm vừa qua.
Đặc biệt hơn nữa, có người còn dí dỏm ví ông là kẻ sĩ trong giai đoạn đầy bi thảm, phẫn uất, oan khiên của lịch sử đất nước. Xuyên qua những tác phẩm để đời, người ta còn nhận định, cho rằng ông bị ảnh hưởng bởi các áng thơ cổ. Bởi sĩ khí của cụ Nguyễn công Trứ, của Đặng Trần Côn trong Chinh Phụ Ngâm Khúc. Anh bạn tôi còn dặn đi dặn lại “Về nhà anh nhớ lên internet rồi vào Youtube, anh sẽ thấy trọn vẹn cái đám tang của người nhạc sĩ đáng kính này.” Cái đám tang làm cho ai nấy cũng đều phải trố mắt, ngạc nhiên và ngay đến cả mấy ông bạn hàng xóm với tôi cũng đều phải thốt lên:
“Quả thật! Chúng tôi không ngờ! Cái đám tang của ông Đại Tá Nhạc Sĩ này lại đông đến như vậy!” “Cái đám tang làm cho mọi người đều không khỏi bàng hoàng, sửng sốt. Điều đáng nói hơn hết, đó chính là mấy anh em cựu quân nhân. Mấy thương phế binh cùng số đàn em học cùng trường với ông ở Vũng Tàu. Họ xếp thành hàng ngang ở trên vỉa hè, đứng nghiêm trong tư thế chào tay để tiễn biệt người đàn anh đáng kính của họ đã ra đi. Hình ảnh đó ai nhìn vào mà không cảm động hở anh! Nói như thế thì quả thật vẫn chưa đủ! Hình ảnh ấy đã khiến cho dòng người đang di chuyển ở trên đường đều phải chậm lại nhìn vào, đồng thời không giấu được vẻ khâm phục lộ ra ở trên mặt! Nhất là đối với mấy tên công an chìm mặc thường phục, đứng trà trộn ở trong đó. Còn riêng về phần gia đình thì đấy là cả một niềm hãnh diện to lớn, phải không anh!”
“Cái đám tang không hẹn mà tới. Cái đám tang đầy ắp, chỉ thấy người với người chen chúc nhau từ trong nhà ra đến ngoài đường. Cái đám tang diễn ra trong bầu không khí đầy trang nghiêm và xúc động. Càng xem tôi lại càng thấy mình bị cuốn hút, hòa nhập vào với dòng người ở trong đấy. Hầu hết người nào người nấy cũng đều phải ngỡ ngàng, sửng sốt anh ạ.Tiện đây, tôi cũng chẳng dấu diếm gì anh! Ngay đến bản thân tôi đây cũng vậy. Tôi đã phải dơ tay lên dụi mắt đến cả mấy lượt nữa là đằng khác! Trong khi bánh xe lịch sử đã xoáy mòn, chìm sâu vào năm tháng, kéo dài đến cả hằng mấy chục năm rồi còn gì nữa! Nhưng người dân ở SàiGòn vẫn còn dành riêng cho ông những tình cảm quá sâu đậm, quá nồng nàn, lênh láng được thể hiện rõ nét trong cái đám tang này. Chắc anh cũng đồng ý với tôi, đấy là cả một trường hợp hi hữu và hiếm hoi, phải không anh? Chẳng những ông là vị đại tá, một sĩ quan cao cấp của chế độ miền Nam trước đây, một sĩ quan từng bị đi tù, bị lăng nhục, bị ngược đãi, bị đầy đọa từ thể xác cho tới tinh thần. Bị dán cho cái nhãn hiệu là ngụy quân,ngụy quyền. Bị gán ghép cho cái tội là làm tay sai cho ngoại bang. Cái tội có nợ máu với tổ quốc và nhân dân. Cuối cùng, rồi sự thật cũng trở về với sự thật. Điều đó không ai có thể nào chối cãi được! Cho dù chế độ hiện nay có cố tình bôi nhọ. Cố tình bưng bít hoặc bẻ cong, bóp méo lịch sử đến thế nào đi chăng nữa. Nhưng đứng trước kỹ nghệ thông tin quá hiện đại, quá bén nhạy, tinh xảo như ngày nay, nhà nước Việt Nam khó có thể bịt mắt, che đậy được người dân như bốn mươi mấy năm về trước nữa. Vả lại, đối với thế hệ trẻ hiện đang còn sống ở trong nước, hầu hết họ đều tỏ ra quan tâm, tìm hiểu về thực chất của nền tự do, dân chủ ở miền Nam.Từ đó họ đưa ra khái niệm đánh giá và so sánh, đồng thời dẫn tới kết luận chính xác hơn, cho đó là chế độ hoàn hảo và tốt đẹp. Một chế độ đáp ứng đúng với những nguyện vọng thiết tha của toàn dân. Một chế độ đã sản sinh ra biết bao nhiêu là nhân tài, biết bao nhiêu là anh hùng hào kiệt, đã hiến cả cuộc đời cho quê hương và dân tộc. Nhìn vào đám tang của nhạc sĩ Nguyễn văn Đông, nhà cầm quyền hiện nay ở Việt Nam sẽ nghĩ gì? Nghĩ gì?! Chắc chắn họ sẽ cảm thấy hoa mắt, chóng mặt, rồi tỏ ra thái độ hằn học, tức tối, bùng lên ở trong não.
Trước đây tôi hoàn toàn chẳng biết chút gì về ông. Tôi chưa hề gặp mặt hoặc tiếp xúc với ông ở ngoài đời.Tôi chỉ nghe loáng thoáng đến tên tuổi ông qua các làn sóng của đài phát thanh Sài Gòn, cũng như đài Tiếng Nói Quân Đội vào thời điểm lúc bấy giờ. Thoáng chợt, tôi sực nhớ tới chuỗi ngày tháng ở Chí Hòa, tôi có nghe người ta xầm xì, bàn tán về ông. Người ta còn cho biết, ông mới vừa được đưa lên từ trại tù Suối Máu ở Tân Hiệp. Ông bị ghẻ lở, bị đủ các chứng bệnh nan y dầy xéo lên thể xác ông. Ngày ấy tôi chẳng biết đích xác ông ở khu nào, dãy nào. Tầng trên hay ở tầng dưới. Tôi đều hoàn toàn không biết. Tôi chỉ mập mờ đoán chừng, có lẽ ông đang ở chung phòng hoặc cùng dãy với mấy ông bộ trưởng thì phải …
Cứ mỗi lần nhắc đến khám lớn Chí Hòa, thì y như tôi lại cảm thấy rùng mình, ớn lạnh cả xương sống. Ngôi nhà tù khét tiếng, lâu đời và được mô tả là lớn nhất ở vùng Đông Nam Á. Nó được chia ra làm tám khu, đồng thời được xây theo hình thù của bát quái trận đồ. Nói tới Chí Hòa thì người ta lại liên tưởng ngay đến nhiều giai thoại rùng rợn về ma quái. Đến hệ thống canh gác rất nghiêm ngặt. Đến dãy tháp canh đứng sừng sững, uy nghi cùng bức tường thành kiên cố bao bọc ở chung quanh. Cho đến giờ phút này,tôi vẫn còn nhớ, có dạo Chí Hòa đã phải trải qua tai họa khủng khiếp,rùng rợn bởi dịch bệnh kiết lỵ. Dạo đó có người ở chung phòng nói với tôi, thấy ông nằm bất động, thoi thóp ở dưới bệnh xá.Thân hình ông tiều tụy, khẳng khiu, tưởng chừng như khó có thể nào vượt qua được lưỡi hái của tử thần. Anh ta còn tỉ tê kể cho tôi nghe: “Anh thử nghĩ xem, kiết lỵ là căn bệnh nguy hiểm và hay lây. Căn bệnh ngặt nghèo, quái ác. Ấy thế mà tiêu chuẩn của mỗi bệnh nhân như chúng tôi chỉ vỏn vẹn có vài viên xuyên tâm liên cộng với nửa ly nước ổi, thì thử hỏi làm sao chúng tôi có thể sống nổi!”
Thời gian cứ lạnh lùng trôi qua, kéo theo biết bao nhiêu thay đổi phũ phàng dồn dập vào năm tháng. Kể từ ngày tôi rời khỏi Chí Hòa cho đến nay, tôi chẳng còn nghe thấy tin tức gì về ông! Thì ra ông đã ở lại. Ở lại với dải đất thân yêu hình chữ S, với thành phố đã gắn bó với ông kể từ khi ông được sinh ra, cất tiếng khóc đầu tiên để chào đời. Lớn lên ông vẫy vùng, ngang dọc, vào sinh ra tử ở trong đó. Rồi, cũng chính trên mảnh đất ấy, ông bị cầm tù, bị đầy ải, sống lây lất cho đến ngày ông xuôi tay nhắm mắt, giã từ khỏi đời sống đầy tạm bợ, chua chát này. Nhiều đêm mất ngủ, tôi vẫn thường hay trằn trọc, suy nghĩ về ông.Với chín năm sáu tháng. Chín năm sáu tháng trong cảnh tù đầy. Chín năm sáu tháng ông có dư điều kiện để đi định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình H.O. Một chương trình nhân đạo của chính phủ Mỹ chỉ dành riêng cho những quân cán chính của miền Nam từng bị giam giữ, bị hành hạ, bị ngược đãi trong các trại tù Cộng Sản, tối thiểu từ ba năm trở lên. Điều làm cho tôi cứ thắc mắc rồi tự hỏi thầm với chính mình. Tại sao ông lại không muốn ra đi để thay đổi cuộc sống? Ông chấp nhận ở lại, ở lại để hứng chịu mọi tủi nhục, mọi oan ức bất công, ròng rã suốt ba mươi mấy năm trời, dưới chế độ hà khắc, bóc lột, tước đoạt hết tất cả mọi quyền sống tối thiểu của con người. Bao nhiêu câu hỏi cứ dồn dập đổ về chất vấn nơi tâm tư tôi! Tại sao ông không muốn có đời sống dễ thở,tự do và trong sáng hơn! Từ đó tôi cứ bị ám ảnh, quay cuồng bởi các câu hỏi tại sao? Tại sao? Và tại sao?
Chiều mưa biên giới anh đi về đâu? Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu. Kìa rừng chiều âm u rét mướ, chờ người về vui trong giá buốt, người về bơ vơ. Tình anh theo đám mây trôi chiều hoang, trăng còn khuyết mấy hoa không tàn. Cờ về chiều tung bay phất phới, gợi lòng này thương thương nhớ nhớ, bầu trời xanh lơ.” Nhạc phẩm này đã thấm sâu vào tâm trí tôi kể từ khi tôi còn là cậu bé mười hai tuổi. Cứ theo như lời ông kể lại trong bài viết trên online Người Việt Tây Bắc tôi được đọc thì tuyệt phẩm này nó được thai nghén ở ngay trong lòng của khu chiến Đồng Tháp. Ngày đó ông là trưởng phòng hành quân trong chiến khu Đồng Tháp. Một chức vụ tối quan trọng nằm trong lãnh vực về tham mưu. Nó đòi hỏi người sĩ quan phải có khả năng, có kinh nghiệm đầy đủ về chiến trường, đồng thời còn phải biết tháo vát và linh động trong mọi tình huống có thể xảy ra. Trong khi đó, tuổi đời của ông lúc ấy còn rất trẻ. Vào buổi chiều u ám với những tảng mây mầu chì đậu thật thấp, ông được lệnh dẫn theo số trinh sát nhanh nhẹn, có nhiệm vụ đi quan sát và điều nghiên chiến trường, chạy dọc theo đường biên giới của hai nước Miên Việt. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ để trở về, bỗng nhiên trời đổ mưa ào ạt trút xuống như thác đổ. Mưa mịt mù, tầm tã. Ông hướng tầm mắt nhìn về phía xa xa, thấp thoáng vài bóng tháp canh mờ ảo, lung linh, lay động ở cuối chân trời.Thoáng chợt, ông thấy tâm tư mình rung động, hòa nhập vào với không gian vần vũ, giá lạnh ở chung quanh.Từ đấy nẩy sinh ra những cung bậc trầm bổng, những trường canh độc đáo, đồng thời tạo ra cho ông nguồn cảm hứng dạt dào, để từ đó ông viết lên ca khúc bất hủ này. Nhạc phẩm Chiều Mưa Biên Giới chẳng những được phổ biến sâu rộng từ Cà Mâu cho đến Bến Hải, đồng thời còn được dịch ra Pháp ngữ và được quái kiệt Trần Văn Trạch chuyên chở bằng hai thứ ngôn ngữ Pháp Việt trên hệ thống phát thanh của đài Pháp Á vào những năm 50 của thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Trong khuôn khổ của buổi tưởng niệm ngắn gọn, nữ ca sĩ Thanh Tuyền đã ngậm ngùi kể lể về cuộc đời ca hát của chính mình. Giọng cô có vẻ quả quyết hơn: “Nếu không có chú Đông hết lòng chỉ bảo thì Thanh Tuyền sẽ không có ngày hôm nay! Chú Đông là người Thầy”. Không những là người thầy có tư cách, mà cô còn xem ông như là một người cha khả kính. Người nghệ sĩ có đầy đủ mọi đức tính cao đẹp của nó. Đấy là lời nhận xét của cô học trò trong buổi tưởng niệm, tâm tinh về ông do đài Việt Face đứng ra tổ chức. Cô cho đấy là cả một định mệnh, một cái duyên thì đúng hơn. Cái duyên đã đưa đẩy cho cô gặp được người nghệ sĩ tài ba này. Ngừng lại vài giây, cô ném niềm suy tư về thành phố Đà Lạt sương mù, về ngôi trường Bùi thị Xuân, về rạp hát Hòa Bình trong buổi phát phần thưởng được tổ chức vào năm 1964, đã khơi dậy ở trong cô một kỷ niệm khó quên ở trong đời. Với hình ảnh ngộ nghĩnh của cô bé Như Mai còn thắt bím, rụt rè bước ra sân khấu, cất cao giọng hát trong nhạc phẩm Vọng Gác Đêm Sương của Mạnh Phát. Tiếng hát lan tỏa ra khắp cả hội trường với chất giọng lanh lảnh, cao vút, đã đánh động đến sự chú ý của người nhạc sĩ tên tuổi Nguyễn Văn Đông lúc bấy giờ đang có mặt ở dưới hàng ghế dành riêng cho quan khách trong buổi phát phần thưởng ngày hôm ấy.
“Sau khi bản nhạc chấm dứt, cô thấy người đàn ông có dáng dấp dong dỏng cao từ ở dưới hàng ghế bước lên, tiến thẳng đến gặp bà hiệu trưởng cùng vị giáo sư của cô ngồi ở gần đấy. Người đàn ông ấy không ai khác hơn, chính là chú Đông. Sau đó, chú liền bước vào hậu trường để gặp cô bé. Chú mở đầu bằng câu khen cô có giọng hát lạ. Chú còn nói tiếp: “Cháu rất có triển vọng, nếu cháu muốn, chú sẽ giúp cháu để trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp”. Đến đây, cô điều hợp chương trình liền lên tiếng: “Nói vậy chứ còn tùy thuộc vào sự quyết định của gia đình, phải không cô?” “Đúng! Con nói rất đúng! Sang ngày hôm sau ông đích thân đến tận nhà để gặp gia đình cô. Thoạt đầu, bố mẹ cô cứ khăng khăng từ chối, không chịu. Nhưng chẳng hiểu ông nói với bố mẹ cô như thế nào, cuối cùng thì bố mẹ cô đành phải xiêu lòng, chấp thuận cho cô đi theo ông về Sài Gòn, ở chung với gia đình chú Mạnh Phát và ca sĩ Minh Diệu.” “Điều làm cho con cứ thắc mắc là tại sao chú Đông lại gửi cô sang nhà chú nhạc sĩ Mạnh Phát!” “Cô không có hỏi! Nhưng chú Đông có nói với cô nguyên văn như sau: “Hiện nay chú chưa có gia đình. Ăn uống lại thất thường, nên cháu ở với chú rất bất tiện.” “Nói tóm lại, chú Đông là người lo cho cô về tất cả mọi phương diện. Chăm sóc cho cô từng ly, từng tý, đồng thời dốc hết mọi khả năng để hướng dẫn, chỉ bảo cho cô. Con cứ thử tưởng tượng xem, chỉ trong vòng có tám tháng, tiếng hát của cô đã vang vọng ra khắp mọi nơi, từ Cao Nguyên cho tới đồng bằng. Từ thôn quê cho đến các tiền đồn hẻo lánh. Tất cả đều do chú Đông quảng cáo rồi lăng xê cho cô bằng đủ mọi thứ phương tiện sẵn có. Nhìn lại năm mươi mấy năm vừa qua, cô sống trong hào quang của sân khấu, của sự thành công rực rỡ là đều nhờ vào chú Đông. Chú Đông đã đổ ra biết bao nhiêu là tâm huyết. Biết bao nhiêu là công sức để cho cô có được ngày hôm nay. Thâm chí, ngay đến cái tên Thanh Tuyền cũng đều do chú Đông đặt cho cô. Công lao ấy làm sao cô có thể quên được! Không bao giờ cô quên! Không bao giờ! Cô có thể thẳng thắn nói với con là như thế.”
“Nhớ lại, sau mấy năm chú ra tù, cô có về Việt Nam và có ghé lại nhà thăm cô chú ở Phú Nhuận. Nhìn thấy chú tiều tụy, sa sút, cô cảm thấy lòng mình se thắt và hai dòng nước mắt cứ tự động tuôn ra. Thấy vậy, cô Thu, tức vợ chú liền quay sang nói với cô: “Chú được như thế này là khá lắm rồi! Chẳng bù cho ngày chú mới ra tù. Nói là trả tự do, chứ thực ra họ cho về là để nằm chờ chết. Người ta khiêng chú về nhà, chẳng khác nào như ngọn đèn dầu sắp tắt. Hầu hết ai nấy ở quanh đây cũng đều nói ra nói vào, sớm muộn gì rồi chú cũng phải ra đi.Thậm chí có người còn quả quyết cho rằng: “Mạng sống của chú chỉ tính bằng giờ, bằng ngày, chứ đâu có thể tính bằng tuần, bằng tháng được”. Ấy thế mà ngọn đèn dầu này cứ leo lét, từ từ được khêu lên, sáng dần, sáng dần, và cứ thế sống mãi cho tới ngày hôm nay. Phải chăng đó là một kỳ tích. Một phép lạ mầu nhiệm thì đúng hơn, đã vực cho chú đứng dậy, để từ đó tiếp tay với người vợ hiền bươn chải, lăn lộn giữa xã hội đầy rẫy những dối trá, lươn lẹo, chụp giật, xô bồ chưa từng thấy ở miền Nam trước đây.” Trong dịp này, cô có lên tiếng hỏi: “Chú có dự tính sang Mỹ theo lời mời của Trung Tâm Thúy Nga không chú?”
Ông lưỡng lự nhìn ra bên ngoài rồi chậm rãi trả lời: “Cuộc đời chú bây giờ chẳng còn thiết tha gì đến hai chữ bon chen! Chú chỉ muốn an phận, sống im lặng quãng đời còn lại. Niềm ước ao duy nhất của chú hiện nay là muốn được nghe lại số nhạc phẩm mà chú tâm đắc nhất ở ngay trên mảnh đất quê hương Việt Nam thân yêu này.” “Điều ấy, ít nhiều cô đã làm cho chú được mãn nguyện trong một dịp về trình diễn ở tại quê nhà.”
Kể từ khi ra tù, ông hoàn toàn sống trong im lặng.Từ chối hầu hết các cuộc phỏng vấn đến từ trong nước cũng như ở ngoài nước. Chấm dứt mọi sinh hoạt về âm nhạc cũng như nghệ thuật.Từ khước lời mời của Trung Tâm Thúy Nga, đã có nhã ý dành riêng cho ông một chương trình đăc biệt với chủ đề Những Tình Khúc Tiêu Biểu của Nhạc Sĩ Nguyễn văn Đông.
Trong dịp về thăm thân nhân tại quê nhà, nhà báo TrườngKỳ có ghé lại thăm ông và được ông dành cho anh buổi tiếp xúc thân mật ở ngay tại nhà riêng số 271 A đường Nguyễn TrọngTuyển, quận Phú Nhuận thuộc thành phố Sài Gòn. Câu chuyện được gói ghém trong mấy chủ đề liên quan tới tuổi thơ, quê quán cho đến sự nghiệp về âm nhạc cũng như con đường binh nghiệp mà ông đã từng theo đuổi.Trước khi đi vào câu chuyện, ông khẳng định “Đối với ông, âm nhạc là nghề tay trái,còn binh nghiệp mới là con đường chính mà ông đã từng dấn thân ở trên đó.”
Ông sinh ra vào năm1932 trong gia đình giàu có ở SàiGòn. Nhưng chánh quán thì lại thuộc vào quận Bến Cầu tỉnh Tây Ninh. Thuở nhỏ ông theo học tại trường Huỳnh Khương Ninh ở Tân Định. Nhờ vào gia đình khá giả nên ông luôn luôn có thầy giáo đến dạy kèm ở ngay tại tư gia. Chính vì thế, thời gian học ở trường lại ít hơn so với thời gian học ở nhà.Vào năm1946, đứng trước tình hình xáo trộn về chính trị ở trong nước, gia đình ông bắt đầu lâm vào tình trạng sa sút, cũng giống như biết bao nhiêu gia đình khác vào thời điểm lúc bấy giờ.Trường Huỳnh Khương Ninh thình lình bị đóng cửa.Vì thế gia đình ông liền xin cho ông vào theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Đến đây, ông nhấn mạnh: “Đấy là ngôi trường thuần túy thuộc về quân đội. Một ngôi trường đòi hỏi mọi đứa trẻ như chúng tôi đều phải khép mình trong khuôn khổ của kỷ luật. Một ngôi trường có nhiệm vụ uốn nắn, đào tạo cho chúng tôi để trở thành những người lính chuyênnghiệp cho đất nước mai sau. Ở đấy, chúng tôi được giảng dạy về văn hóa,đồng thời còn được huấn luyện đến các bài học căn bản về quân sự. Song song với những phần kể trên, chúng tôi còn được hướng dẫn, dạy dỗ luôn cả về lãnh vực âm nhạc nữa.Ông cho biết, ông được hấp thụ bởi tinh anh của mấy vị nhạc sư người Pháp có thực tài.Ông biết sử dụng nhuần nhuyễn các nhạc cụ như trống, chập chả, trompet, clarinet. Nhưng chuyên nghiệp vẫn là hai cây đàn mandolin và cây Hạ Uy cầm.Ông cũng là một trong bốn mươi thành viên trong ban quân nhạc của nhà trường.Ngay từ khi ông còn ngồi ở ghế học đường,ông đã cho trình làng hai nhạc phẩm đầu tay, đó là nhạc phẩm Thiếu Sinh Quân Hành Khúc và Tạm Biệt Mùa Hè. Năm ấy là năm 1948, ông mới vừa tròn mười sáu tuổi.
Tốt nghiệp tại trường Thiếu Sinh Quân vào năm 1950, ông tiếp tục theo học khóa 4 trường đào tạo sĩ quan Vũng Tàu. Mãn khóa, ông đậu thủ khoa với cấp bậc thiếu úy vào năm 1952, trong vai trò của một trung đội trưởng tác chiến.Ông tham dự khóa Đại Đội Trưởng tại trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt vào năm 1953. Theo học khóa Tiểu Đoàn Trưởng tại trường ChiếnThuật ở Hà Nội vào năm 1954. Ông được cử giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 553 Trọng Pháo lúc mới hai mươi bốn tuổi, và được đánh giá là vị tiểu đoàn trưởng trẻ nhất trong quân đội. Ông lần lượt theo thứ tự từ cấp dưới lên trên. Đảm nhiệm từ chức trung đội trưởng cho đến tiểu đoàn trưởng. Cứ theo như lời tâm sự, ông còn được ân thưởng huy chương cao quý nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa,“Bảo Quốc Huân Chương” Ngoài ra, ông còn cho biết thêm là ông chưa hề phục vụ ở trong ngành Chiến Tranh Chính Trị như mọi người vẫn lầm tưởng.Là một người lính Bộ Binh thuần túy, chuyên nghiệp, khởi sự từ Thiếu Úy cho tới cấp Đại Tá, chức vụ sau cùng của ông là Chánh Văn Phòng của Khối An Ninh Lãnh Thổ thuộc Bộ Tổng Tham Mưu.
Trong ký ức hành quân, ngoài chiến dịch Thoại NgọcHầu, ông thường hay nhắc đến chiến dịch Trương Tấn Bửu, đến mấy địa danh khá nổi tiếng như ĐồngTháp,Mộc Hóa, Kiến Tường. Ông cho đấy là chốn địa linh, anh kiệt. Chính nơi đấy, đã gợi hứng cho ông viết lên hai nhạc phẩm thuộc loại hùng ca, có tên là Súng Đàn và Vui Ra Đi. Hai nhạc phẩm này đã có một thời kỳ ca vang trong chiến khu Đồng Tháp.Tiếp đến là Phiên Gác Đêm Xuân đã nói lên cái tâm trạng của người lính chiến xa nhà, vào đêm tối trời ba mươi Tết, trên một tiền đồn xa xôi, hẻo lánh, hiu quạnh.
“Đón giao thừa một phiên gác đêm.Mừng xuân đến súng xa vang rền. Xác hoa tàn rơi trên báng súng. Ngỡ rằng pháo tung bay. Ngờ đâu hoa lá rơi. Bấy nhiêu tình là bao nước sông. Trời thương nhớ cũng vương mây hồng. Trách chi người đem thân giúp nước. Đôi lần nhớ bâng khuâng. Mỉm cười hái hoa xuân”Âm vang của Phiên Gác Đêm Xuân vừa dứt, Chiều Mưa Biên Giới cùng Sắc Hoa Màu Nhớ cũng lần lượt được ra đời.Với ba nhạc phẩm nói trên, đã tô điểm cho tên tuổi của người nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, càng ngày càng lên cao và in sâu vào tâm khảm của giới thưởng thức lúc bấy giờ. Riêng nhạc phẩm Chiều Mưa Biên Giới, tôi không hiểu vì lý do gì, nhạc phẩm này đã bị đình chỉ trong khoảng thời gian khá lâu. Cho đến năm 1961, bản nhạc này mới được chính quyền thời Đệ Nhất Cộng Hòa cho phép được hát lại. Đến đây, câu hỏi được đặt ra cho ông: “Sau 9 năm 6 tháng, ông có điều gì muốn tỏ bầy với mọi người ở trong nước cũng như ở ngoài nước?” Ông ngậm ngùi rồi bật lên tiếng thở dài ai oán: “Điều làm cho tôi đau buồn, chua xót nhất, là trong khi tôi còn nằm ở trong tù, thì cha tôi bị lâm trọng bệnh ở bên ngoài, rồi mất đi vào giữa lúc tôi không có mặt ở bên cạnh ông! Tôi rất lấy làm ân hận, là không được nhìn cha tôi lần chót và cũng không được đưa tiễn ông ra đến nơi an nghỉ cuối cùng. Điểm thứ hai, tôi muốn đề cập đến số phận của những đứa con tinh thần của tôi.Tôi không biết cho đến ngày nào, chúng nó mới được trả về đúng với từng vị trí của chúng nó như trước kia.”
Năm 1957, ông lên đường đi Hạ Uy Di để theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu.Tại đây, ông nẩy sinh ra mối tình giữa ông với cô thiếu nữ xinh đẹp người Áo. Mối tình ấy tuy rất đẹp, rất lãng mạn. Nhưng rốt cuộc, rồi cũng đành phải chìm theo bóng tối của thời gian.Vào buổi chiều xuân, ông chạnh lòng, hồi tưởng về quá khứ, buông mắt nhìn về tận chốn xa xăm nơi phương trời cũ. Chính ở nơi đó, đã gợi lại cho ông chuỗi kỷ niệm mượt mà về một thời yêu đương ở dĩ vãng.Những kỷ niệm ấy đã thôi thúc cho ông viết lên nhạc phẩm Nhớ Một Chiều Xuân“Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người.Chạnh lòng tôi khơi bao niềm nhớ. Người nơi xa xôi phương trời ấy. Người còn buồn còn thương còn nhớ. Nắng phai rồi em ơi.Chiều xuân có một người ngơ ngác đi tìm.Một tình thương nơi phương trời cũ.Chiều nay hoa xuân rơi nhiều quá. Chiều tàn dần phai trên ngàn lá. Tìm đâu bóng hình ai.”
Nói tới nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông mà không đề cập đến ca sĩ Hà Thanh thì quả thật là một điều thiếu sót to lớn. Người ca sĩ của đất thần kinh,của sông Hương, của núi Ngự, có giọng hát nhẹ nhàng, cuốn hút, đã đưa dòng nhạc Nguyễn Văn Đông bay đi tới nơi thật xa, đến tận các thành thị, cho tới vùng thôn quê hẻo lánh cùng những tiền đồn biên giới xa xôi, hiu quạnh. Tự nhiên, tôi có linh cảm, hiện giờ ông đang hội ngộ với người ca sĩ khả ái này tại chốn bình an, huyền ảo, linh thiêng nào đó.
Để trả lời câu hỏi: “Trong suốt khoảng thời gian từ năm1975 cho tới nay,ông có còn sáng tác hay là không? Nếu có thì tổng cộng được bao nhiêu bài?” Ông ngước mắt nhìn lên trần nhà rồi tỏ vẻ ngao ngán: “Nhiều khi tôi ngồi một mình, ngẫm nghĩ lại chuỗi thời gian dài dằng dặc ở quá khứ. Với 9 năm 6 tháng ở trong tù. 32 năm rưỡi sống ở ngoài đời, tôi cảm thấy mình quá lãng phí với thời gian. Nếu đem cộng lại thì là cả một chặng đường dài hết thẩy bốn mươi hai năm. Bốn mươi hai năm dài lắm chứ anh! Bốn mươi hai năm, tôi chỉ viết duy nhất được có mỗi bản nhạc. Đó là, “Sài Gòn Trong Trái Tim Tôi”để tưởng nhớ đến người bạn văn nghệ thân thiết đã nằm xuống, ra đi.”
Ngoài những nhạc phẩm kể trên, người ta còn chứng kiến hàng loạt các tác phẩm mới được ra đời, điển hình như Mấy Dặm Sơn Khê, Thầm Kín,Vô Thường,Niềm Đau Dĩ Vãng,Tình Cố Hương, Anh, Khúc Xuân Ca,Tình Đầu Xót Xa, Kỷ Niệm Vẫn Xanh, Bông Hồng Cài Áo,Trái Tim Việt Nam, Lời Giã Biệt, Xin Đừng Trách Anh,Về Mái Nhà Xưa…vân vân và vân vân…Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến nhạc phẩm Mấy Dặm Sơn Khê. Đấy là một trong những tác phẩm ưng ý nhất của nhạc sĩ Nguyễn văn Đông. Bằng những từ ngữ thật nồng nàn, tha thiết, ông đã lột tả hết được vai trò của người lính chiến ở miền Nam trước đây.“Anh đến thăm,áo anh mùi thuốc súng. Ngoài mưa khuya lê thê. Qua ngàn chốn sơn khê. Non nước ơi,hồn thiêng của núi sông,kết trong lòng thế hệ. Nghìn sau nối nghìn xưa. Bao ước mơ giữa khung trời phiêu lãng. Chờ mùa xuân tươi sang. Nhưng mùa thắm không sang. Anh đến đây, rồi anh như bóng mây. Chốn phương trời ấm lạnh. Hòa chung mái nhà tranh.”
Có điều đáng nói hơn hết, ông không phải là một tín đồ Công Giáo! Ông là người mộ đạo Phật. Nhưng ông lại viết về Thánh Ca.Tuy số lượng không đồ sộ cho lắm. Nhưng các nhạc phẩm của ông, đã tạo ra tiếng vang lớn, đồng thời lắng sâu vào tâm khảm của người Công Giáo Việt Nam,điển hình như Mùa Sao Sáng,Màu Xanh Noel, Bóng Nhỏ Giáo Đường,Tình Người Ngoại Đạo. Nổi bật hơn hết, chúng ta phải nói đến, chính là nhạc phẩm Mùa Sao Sáng. Hằng năm,cứ mỗi độ Đông về, trong không khí lành lạnh của mùa Giáng Sinh, ai nấy đều cảm thấy lòng mình lắng xuống, lâng lâng trước giọng hát trầm buồn của người ca sĩ sầu muộn vang vọng ở đâu đây.“Một mùa sao sáng, đêm Noel chúa sinh ra đời. Người hẹn cùng tôi chờ người về khi đất nước yên vui. Quỳ lạy mẹ Maria Lòng mẹ từ bi bao la.Tấu khúc nhạc lên xin ơn trên ban cho nhà Nam. Từ mùa Đông trước qua mùa Đông tiếp theo sau này. Người bạn còn đi mà niềm tin vẫn thắm trên môi.Giặc tràn về quê hương tôi. Giặc diệt niềm tin Kitô Lớp lớp đàn chiên quyết sáng danh chúa trên trời cao.”
Có nhiều người thường cho rằng Nguyễn Văn Đông chẳng những là một nhạc sĩ có tài, ông còn là người có năng khiếu về tổ chức. Nhận xét đó chẳng sai chút nào! Ông nguyên là con chim đầu đàn của đoàn văn nghệ Vì Dân, một đoàn văn nghệ nổi tiếng, qui tụ hầu hết các khuôn mặt gạo cội của làng tân nhạc ở miền Nam lúc bấy giờ, như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh,Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu. Ngoài ra,ông còn đảm nhận chương trình văn nghệ hằng tuần cho đài phát thanh Sài Gòn, đồng thời ông cũng là trưởng ban nhạc của ban Tiếng Thời Gian, với sự đóng góp của số ca sĩ tên tuổi như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc. Ngoài những công việc bận bịu kể trên,ông còn cặm cụi, miệt mài viết lời Việt cho số ca khúc ngoại quốc nổi tiếng, điển hình như Silent night và Ave Maria.
Vào năm 1959, ông được đề cử trong vai trò trưởng ban tổ chức cho Đại Hội Thi Đua Văn Nghệ toàn quốc. Đại hội này được đánh giá là thành công rực rỡ,ông được bà Ngô Đình Nhu đại diện cho chính phủ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã đích thân trao tặng cho ông một phần thưởng được mô tả là quí giá nhất về thành quả nói trên. Song song với các thành tích vừa kể, ông còn hợp tác với người bạn cao niên và cũng là nhà doanh nghiệp nổi tiếng ở Sài Gòn, đứng ra thành lập hai hãng đĩa nhựa Continental và Sơn Ca. Người bạn ông với danh nghĩa là giám đốc về sản xuất. Còn riêng ông, chỉ đóng khung trong vai trò là giám đốc phụ trách về nghệ thuật. Chủ trương của hai hãng đĩa nói trên nhắm vào hai bộ môn Tân Nhạc và Sân Khấu Cải Lương Tân Cổ. Chính ông đã có sáng kiến đi tiên phong trong công cuộc thực hiện album riêng cho từng ca sĩ một thời vang bóng: Khánh Ly với Sơn Ca 7. Lệ Thu với Sơn Ca 9. Thái Thanh cùng ban hợp ca Thăng Long với Sơn Ca 10, cùng nhiều album khác dành cho Thanh Tuyền, Giao Linh, Phương Dung, mục đích vinh danh các tài năng đang lên vào những thập niên 60, 70.
Riêng bộ môn sân khấu Cải Lương, ông đã thực hiện cả hàng trăm chương trình Tân Cổ giao duyên và trên năm mươi vở tuồng Cải Lương kinh điển như Nửa Đời Hương Phấn, Đoạn Tuyệt, Tiếng Hạc Trong Trăng, Sân Khấu về Khuya, Mưa Rừng. Trong khoảng thời gian này, ngoài ba chữ quen thuộc Nguyễn Văn Đông, ông còn ký thêm hai bút hiệu riêng biệt khác nữa! Đó chính là Nhạc sĩ Phượng Linh cùng soạn giả Đông Phương Tử, nhằm phục vụ cho bộ môn sân khấu và Tân Cổ giao duyên…
Quả đúng như lời anh bạn tôi nói. Đám tang chỉ thấy người với người. Chỉ nghe thấy tiếng mõ cùng với tiếng tụng kinh đều đặn của mấy vị tăng lữ Phật Giáo. Khói hương mù mịt lan tỏa ra khắp cả căn nhà.Trong không khí nghi ngút, trang nghiêm ấy, tôi nhận ra sự hiện diện của vị linh mục Công Giáo, cùng số giáo dân tháp tùng đi theo ông. Ông khoanh tay, ngước mắt nhìn lên bàn thờ. Đăm đăm, dán mắt vào tấm ảnh bán thân được đặt ở trên đấy. Bằng cử chỉ thật trang trọng, vị linh mục giơ tay lên làm dấu thánh giá, đọc lên kinh lạy cha. Kinh kính mừng và kinh sáng danh. Kết thúc là lời khẩn cầu, nguyện xin ơn trên phù hộ cho linh hồn người quá cố sớm được hưởng phúc nơi quê thật ở trên trời. Cử chỉ ấy, phong cách ấy khiến cho toàn thân tôi chùng xuống trong sự cảm động và tôi không cầm được nước mắt. Nổi bật hơn hết, vẫn chính là hình ảnh của những người lính cũ năm nào. Của những anh thương phế binh tay còn tay mất. Của những đàn em học cùng trường với ông. Họ xếp thành hàng ngang, đứng nghiêm trong tư thế chào tay, giữa giờ phút di quan từ trong nhà ra tới ngoài xe. Hình ảnh ấy làm sao tôi có thể diễn đạt hết được đầy đủ mọi ý nghĩa cao quý của người lính ở miền Nam trước đây, lên trang giấy trắng nhỏ bé này! Không bao giờ tôi quên! Không bao giờ! Tôi có thể quả quyết là như thế.
Đoàn xe tang bắt đầu di chuyển, đưa ông qua các đường phố nhộn nhịp, đông người, rồi trực chỉ tiến thẳng về hướng nghĩa trang Bình Hương Hòa. Đấy là khu nghĩa địa cuối cùng còn sót lại ở tại thành phố này và hiện đang có lệnh nằm trong kế hoạch giải tỏa của nhà nước. Chính bố mẹ tôi cũng được an táng ở tại đấy cách đây mười tám năm: Sau khi có lệnh được thông báo, gia đình tôi đành phải ngậm ngùi bốc cốt đem thiêu rồi gửi tro vào nhà thờ thuộc họ đạo công giáo ở gần nhà. Cuộc đời là tro bụi, là phù vân. Tro bụi rồi cũng trở với tro bụi. Đó là qui luật tất nhiên, một qui luật bất di bất dịch thượng đế đã an bài cho mỗi người chúng ta. Có phải đúng như vậy, không ông!”
Tôi viết những dòng chữ này cho ông. Những dòng chữ quá muộn màng, thô thiển. Những dòng chữ mà tôi đã từng ấp ủ cả hằng năm, sáu tháng nay. Viết cho ông vào giữa lúc tại quê nhà, đang nổ ra các cuộc xuống đường rầm rộ, phản đối dự luật an ninh mạng,cũng như dự luật nhắm thẳng vào ba đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Chủ đích của nhà cầm quyền hiện nay là muốn hợp thức hóa việc cho thuê ba phần đất nói trên, với thời hạn được công bố là 99 năm. 99 năm có nghĩa là giao đứt ba đặc khu quan trọng này cho “người bạn hữu nghị phương Bắc” Người bạn nham hiểm kể từ ngàn xưa cho đến nay. Người bạn ấy chính là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.
Từ trước cho tới nay, hầu hết mọi người dân ở trong nước đều tỏ ra nghi ngờ, thắc mắc, về tổng số diện tích của nước ta hiện giờ còn lại là bao nhiêu! Bao nhiêu cây số vuông mà nhà nước đã dâng hiến cho người bạn hữu nghị của 16 chữ vàng ở biên giới! Còn số phận của Gạc Ma,Trường Sa,Hoàng Sa thì ra sao! Đấy là chúng ta chưa đề cập tới hai vị trí quan trọng có tầm vóc về lịch sử như Ải Nam Quan cũng như là Bản Dốc. Phải chăng! Các nơi đó đã không còn hiện diện trên vị trí của bản đồ Việt Nam như mấy chục năm về trước nữa!
Nhìn lại dòng lịch sử, dân tộc ta đã phải trải qua tới 1000 năm đô hộ của giặc Tàu.100 năm dưới ách thống trị của người Pháp.Tiếp đến là hai mươi mốt năm trong cuộc chiến tranh ý thức hệ. Một cuộc chiến tàn bạo, khốc liệt, diễn ra giữa hai thể chế chính trị đối nghịch rõ rệt.Giữa tự do, dân chủ ở miền Nam với chủ nghĩa vong bản, vô thần ở miền Bắc. Ngày nay, chiến tranh đã lui vào cô tịch. Đất nước tôi đã hòa bình từ lâu. Hòa bình trong lam lũ, cơ cực. Hòa bình có, nhưng tự do thì không! Hòa bình trong chiếc bánh vẽ về một tương lai chói ngời, chập chờn ở phía trước. Chiếc bánh đó chẳng bao giờ có thực! Đời sống của người dân quê tôi vẫn còn ngụp lặn trong đói khổ, lầm than.Vẫn còn bị áp bức. Bị bắt bớ, tù đầy, dưới chế độ hà khắc, bóc lột, chưa từng thấy trong lịch sử của dân tộc! Cái chế độ bất công ấy, chỉ biết xử dụng bạo lực để cai trị, đè bẹp dân chúng. Chỉ biết đặt quyền lợi cá nhân lẫn đảng phái lên trên quyền lợi tối thượng của tổ quốc. Cái chế độ thối nát đó, cần phải được đào thải trước thời đại văn minh, tiến hóa của nhân loại. Ngày nay, đã tới lúc, mọi người dân ở trong nước, đều đồng loạt đứng lên, dõng dạc, hiên ngang, đòi lại cái quyền sống, quyền làm người, cũng như quyền làm chủ vận mệnh của đất nước mà tổ tiên tôi đã để lại.
Giờ đây, đứng trước tình hình nóng bỏng, sôi sục đang diễn ra thường xuyên ở quê nhà. Đứng trước sự đàn áp dã man của lực lượng Cảnh sát cơ động. Xin ông hãy đoái thương đến dân tộc Việt Nam. Độ trì cho công cuộc đấu tranh hiện nay ở trong nước, sớm vượt qua được mọi khó khăn, thử thách,ngõ hầu đưa con tàu đất nước đến bến bờ của vinh quang.Tôi tin chắc rằng, niềm tin sẽ thắng và phải thắng. Cho chế độ bạo quyền hiện nay phải tan rã, ra đi như các quốc gia ở Đông Âu cũng như ở Liên Xô. Cho dân tộc tôi được hưởng nền hòa bình, tự do, dân chủ thực sự. Dân tộc tôi đã đau khổ quá nhiều. Cho đàn chim lìa xứ quay về tổ, để xiết chặt thành vòng tay lớn, hầu ra sức, kiến tạo, xây dựng một đất nước Việt Nam hùng mạnh và phú cường.
Đến đây, tôi xin mượn mấy câu trong Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp của ông để kết thúc cho bài viết nầy: “Còn đây đêm cuối cùng. Nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha. Ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em. Người đi giúp núi sông. Hàng hàng lớp lớp chưa về. Người người nối tiếp câu thề giành lấy quê hương./.”
7/18
*TRANG LUÂN
*TRANG LUÂN
– Mời đọc thêm: Bài Nguyễn Khắp Nơi và Bài viết của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông “Gửi bạn tù Suối Máu” trên online Người Việt Tây Bắc
– DVD Paris 125 chủ đề Nguyễn Văn Đông đã phát hành– Bài viết do nhà văn Phạm Quốc Bảo dành cho NVTB và Thúy Nga Paris By Night