Những hóa chất được đưa vào các sản phẩm nông hóa – thuốc trừ sâu và phân bón – và họ đã thuyết phục chúng ta rằng chúng ta không thể có thức ăn mà không có các chất độc này, trong khi hệ thống nông nghiệp sinh thái đã tiến triển từ 10.000 năm nay và hoạt động cùng với thiên nhiên theo những nguyên tắc sinh thái…
Trong cuộc phỏng vấn quan trọng này tại tạp chí trực tuyến ROAR, nhà bác học Ấn Độ danh tiếng Vandana Shiva nói về vai trò của nông nghiệp công nghiệp hóa trong biến đổi khí hậu, những thách thức mà nông dân các nước đang phát triển phải đối mặt và cách tránh khỏi thảm họa nhãn tiền về môi trường đang đe dọa sự tồn tại của chúng ta trên hành tinh này.
Bà Vandana Shiva là nhà hoạt động tiên phong về sinh thái, bà đã tham gia vào các phong trào đấu tranh quần chúng chống lại công nghệ biến đổi gen trên toàn thế giới và đã lãnh đạo thành công nhiều phong trào đấu tranh chống lại các tập đoàn đa quốc gia và các tổ chức quốc tế khi họ tìm cách chiếm độc quyền và tư nhân hóa các hạt giống, những tri thức cổ truyền và các nguồn tài nguyên thiên nhiên bản địa.
Trong nhiều năm, trong các bài viết lẫn hành động, bà đã tích cực chống lại toàn bộ sự biến đổi từ nền nông nghiệp với hệ hình nông nghiệp sinh thái sang hệ hình công nghiệp. Trong quyển sách mới nhất của bà “Who Really Feeds the World? – Ai thực sự nuôi sống thế giới?”, bà cũng nhấn mạnh rằng “hệ hình công nghiệp của nông nghiệp là nguồn gốc của biến đổi khí hậu”. Chúng ta phải thiết lập khái niệm về sự khác biệt giữa hai hệ hình này như thế nào và chúng đóng vai trò gì trong diễn biến của biến đổi khí hậu?
Bà Vandana Shiva: Có hai hệ hình nông nghiệp khác hẳn nhau. Hệ hình đầu là nông nghiệp công nghiệp hóa, được thiết kế và triển khai bởi “cartel các chất độc”, các doanh nghiệp và nhà máy hóa chất này xuất hiện trong chiến tranh thế giới thứ hai và kiểm soát việc sản xuất hóa chất dùng trong chế tạo chất nổ cũng như trong việc tiêu diệt hàng loạt người.
Sau chiến tranh, họ lại đưa chính những hóa chất này vào các sản phẩm nông hóa – thuốc trừ sâu và phân bón – và họ đã thuyết phục chúng ta rằng chúng ta không thể có thức ăn mà không có các chất độc này. Hệ hình thứ hai là hệ thống nông nghiệp sinh thái đã tiến triển từ 10.000 năm nay và hoạt động cùng với thiên nhiên theo những nguyên tắc sinh thái.
Có một trong hai loại tương lai cho thực phẩm và nông nghiệp ở cuối của mỗi hệ hình.
Một hệ hình dẫn tới ngõ cụt: một hành tinh không có sự sống và bị đầu độc bởi những hệ thống độc canh dựa trên hóa chất, nông dân tự vẫn để thoát khỏi bần cùng do nợ nần, trẻ em chết vì không có thức ăn và người lớn bị những bệnh mãn tính lây lan thông qua những thực phẩm rỗng và độc hại được bày bán như là thức ăn, trong lúc đó những tàn phá của khí hậu hủy hoại sự sống của con người trên trái đất.
Hệ hình thứ hai đưa đến sự trẻ hóa hành tinh thông qua việc tái tạo đa dạng sinh học, tái tạo đất đai, nguồn nước và những nông trại nhỏ đang sản xuất một nguồn thực phẩm đa dạng, lành mạnh, sinh thái và tươi mới cho tất cả mọi người.
Nông nghiệp công nghiệp hóa trên toàn thế giới là một trong những tác nhân quan trọng đóng góp vào biến đổi khí hậu. Một số người ước lượng là ít nhất 25% khí thải toàn cầu có liên quan đến hệ thống thực phẩm công nghiệp: khí dioxide carbon (CO2) do việc sử dụng các chất đốt hóa thạch, oxide ni-tơ (N2O) do việc sử dụng phân bón hóa học và khí mê-tan (CH4) thoát ra từ nông nghiệp công nghiệp hóa.
Theo Nhóm chuyên gia liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), mật độ CO2 trong khí quyển đã tăng từ khoảng 280 ppm (phần triệu) thời kỳ tiền công nghiệp lên 403,3 ppm năm 2016 do ảnh hưởng của các hoạt động của con người.
Khi mức độ CO2 cũng cao như vậy cách đây 3,5 triệu năm, nhiệt độ trên trái đất nóng hơn từ 2 đến 3 độ và mực nước biển cao hơn từ 10 đến 20 mét. Mật độ khí mê-tan trong bầu khí quyển trên toàn cầu đã tăng từ 715 ppb (phần tỷ) thời kỳ tiền công nghiệp lên 1.774 ppb năm 2005. Mật độ oxide ni-tơ trong bầu khí quyển – phần lớn do sử dụng phân bón hóa học trong nông nghiệp – đã tăng từ khoảng 270 ppb lên 319 ppb trong năm 2005.
Việc khai thác, đốt các nhiên liệu hóa thạch (carbon chết) của Trái Đất và thải ra trong khí quyển những lượng khí thải không kiểm soát được đưa đến sự phá vỡ chu trình carbon và sự mất ổn định của các hệ thống khí hậu. Để hấp thụ nhiều hơn carbon sống trong khí quyển, chúng ta phải tăng cường các trang trại nông nghiệp và phát triển rừng trên phương diện sinh học, về đa dạng sinh học cũng như về sinh khối.
Càng có nhiều đa dạng sinh học và sinh khối, cây cối càng hấp thụ được nhiều carbon và ni-tơ trong khí quyển, điều này làm giảm cả khí thải lẫn các khối dự trữ các chất gây ô nhiễm trong không khí. Cây cối sẽ trả lại carbon cho đất. Do đó nông nghiệp sinh học và biến đổi khí hậu liên quan chặt chẽ với nhau.
Bà có nói “tương lai nằm ở đất”, điều đó có nghĩa là gì? Và theo bà, chúng ta có thể rút ra những bài học quan trọng nào từ những tri thức và thực hành bản địa trong lĩnh vực nông nghiệp để đối phó với những khủng hoảng sinh thái mà ngày nay chúng ta đang đối mặt?
Chúng ta sinh ra từ đất. Chúng ta là đất. Chúng ta cũng được hình thành từ năm yếu tố tạo thành vũ trụ – đất, nước, lửa, không khí và không gian. Điều mà chúng ta làm cho đất đai là điều mà chúng ta làm cho chúng ta. Và không phải ngẫu nhiên khi các từ “humus” – chất mùn – và “humain” – con người – có cùng gốc từ nguyên.
Tất cả các nền văn hóa bản địa đều thừa nhận chúng ta là một với Trái Đất, và chăm sóc đất đai là bổn phận tối cao của chúng ta. Như kinh Vệ Đà xưa (Veda) đã nói (veda từ tiếng sanskrit nghĩa là kiến thức): “Tương lai của bạn nằm trong nắm đất này. Hãy chăm sóc nó, nó sẽ chăm sóc bạn. Phá hủy nó, nó sẽ hủy diệt bạn”.
Chân lý sinh thái này đã bị lãng quên trong hệ hình thống trị của nông nghiệp công nghiệp hóa, vốn hoạt động dựa trên một tiền đề sai là chúng ta tách rời và độc lập đối với Trái Đất, về mặt này hay mặt khác, và tiền đề này xác định đất đai là vật liệu chết. Nếu ngay từ đầu đất đai là vật liệu chết, hành động của con người không thể hủy hoại sự sống của nó mà chỉ có thể “cải thiện” nó với phân bón hóa học. Và nếu chúng ta là người chủ và người chinh phục đất đai, chúng ta quyết định vận mệnh của đất – đất không thể quyết định số phận của chúng ta.
Tuy nhiên, lịch sử đã chứng kiến số phận của các xã hội và các nền văn minh liên quan chặt chẽ với cách chúng ta đối xử với đất đai. Chúng ta có sự lựa chọn mối quan hệ của chúng ta với đất đai, theo “Quy luật hoàn trả” hay theo “Quy luật bóc lột và khai thác”.
“Quy luật hoàn trả”, cho lại, đã làm cho các xã hội tạo lập và gìn giữ đất đai màu mỡ và đất đã trợ giúp các nền văn minh trong hàng ngàn năm. “Quy luật bóc lột”, lấy đi mà không cho lại, đã đưa đến sự sụp đổ các nền văn minh. Các xã hội đương thời trên toàn thế giới đang bên bờ sụp đổ khi mà đất bị xói mòn, suy thoái, nhiễm độc, bị chôn dưới bê tông và mất cả sự sống.
Nông nghiệp công nghiệp hóa, dựa trên một hệ hình thiên về cơ giới và sử dụng nhiên liệu hóa thạch, đã tạo ra sự dốt nát và làm cho chúng ta mù lòa không thấy các tiến trình sống động tạo ra sự sống của đất đai. Thay vì tập trung vào mạng lưới dinh dưỡng, nền nông nghiệp này bị ám ảnh bởi những nguồn cung cấp từ bên ngoài về phân bón hóa học và cơ giới hóa, tạo ra đòi hỏi cấp bách của độc canh – lúc đó sinh học và sự sống bị thay thế bởi hóa học.
Khi đất đai bị nhiễm độc bởi các yếu tố hóa học, các hệ thống độc canh làm cho đất bị xói mòn bởi gió và nước. Vì chất hữu cơ tạo ra các hạt đất và liên kết chúng lại, nên những vùng đất nghèo nàn chất hữu cơ và được bồi bổ một cách nhân tạo bằng phân bón hóa học dễ bị xói mòn hơn.
Đất bị suy thoái và chết đi, đất không có chất hữu cơ, đất không có các yếu tố sống, đất không có khả năng giữ nước sẽ tạo nên nạn đói và khủng hoảng lương thực – chúng không tạo ra an ninh lương thực. Điều này đặc biệt đúng trong các thời khắc biến đổi khí hậu hiện nay. Nông nghiệp công nghiệp hóa không những là nguyên nhân tạo ra gần 1/4 lượng khí gây hiệu ứng nhà kính góp phần vào biến đổi khí hậu, mà nó còn dễ bị tổn thương trong những điều kiện đó.
Đất giàu chất hữu cơ chống chọi tốt hơn với hạn hán và những điều kiện khí hậu cực đoan. Và sự gia tăng sản xuất chất hữu cơ thông qua những hệ thống có cường độ cao về đa dạng sinh học là phương tiện hiệu quả nhất để rút dioxide carbon ra khỏi khí quyển, đưa vào cây cối, rồi vào đất đai nhờ vào “quy luật hoàn trả”.
“Đất đai, chứ không phải dầu mỏ, nắm giữ tương lai của nhân loại”.
Nông nghiệp công nghiệp hóa dựa trên dầu mỏ, sử dụng với cường độ cao nhiên liệu hóa thạch và hóa chất, đã gây ra các quá trình sinh thái và xã hội giết chết đất, và gây nguy hiểm cho tương lai của chúng ta.
Tâm An – ntdvn