Nhà văn Phạm Quốc Bảo- với trên 22 cuốn sách đã ấn hành.., trong số này nhiều cuốn đã tái bản, như Cùm Đỏ, Cuốn sách đầu tiên: “Chiến Tranh và Tuổi Trẻ Phương Tây“- (1969) Tác phẩm đầu tay này đã được Người Việt Tây Bắc tái bản, (2020)
“Ai đưa ta đến chốn đây
bên kia là núi bên này biển khơi (*)
- Phạm Quốc Bảo.
– Anh đấy hả. Có bận gì không? Em hỏi thăm chút..
– Không sao, cứ nói đi.
– Chị Ninh đã gọi cho anh chưa?
– Chuyện Chủ nhật này chị ấy giỗ cậu mợ, phải không?
– Đúng. Anh có ý kiến gì khác chăng?
– Chị ấy là chị cả. Chị ấy muốn làm giỗ cậu mợ ở nhà chị ấy để tiện cho các gia đình anh chị em tụi mình tụ họp vui vầy tại nhà chị ấy. Theo anh thế là phải.
– Ý em muốn hỏi là có đặc biệt nào anh cần dặn dò tụi em chăng?
– Bất ngờ em hỏi, anh chưa nghĩ thêm được gì khác… Như mọi khi, chị ấy có lẽ cũng chỉ sửa sọan tòan món chay để cúng thôi..Còn tụi mình vẫn mỗi nhà đưa lễ tới, phụ thêm vào một vài món mặn gì đó, cho tụi nhỏ dễ ăn.
– Nghĩa là vẫn như mọi năm?
– Anh nghĩ vậy… Bởi chị ấy chỉ gọi nhắc nhớ mà không thấy dặn dò thêm… Riêng em muốn đề nghị gì chăng?
– Đâu có.. Em gọi hỏi anh là để… cho chắc ăn vậy.
– À. Anh thấy cũng cần đề nghị với em là nên nhắc tụi nhỏ nhà em có mặt đầy đủ nhá.
– Mấy đứa con em chúng nó đang mắc bận đi làm cả hai ngày cuối tuần này. – Ồ.. Thế hả! Năm ngóai giỗ ông bà nội, chúng nó đã chẳng đến rồi. Anh thấy như vậy không nên…
– Quan trọng đến độ bắt buộc chúng nó phải có mặt sao anh?
– Giỗ cậu mợ thì dĩ nhiên là quan trọng rồi. Nhưng bảo là bắt buộc thì theo anh, không một ai có thể bắt buộc đuợc mình phải làm gì cả, trừ trường hợp tự mình thấy cần thiết phải thực hiện mà thôi, em à.
– Dường như em chưa hiểu hết ý của anh… Tối nay, sau bữa cơm chiều, anh có rảnh không?
– Ý em muốn sao?
– Em vừa nẩy ra ý định đến anh chơi tối nay. Anh em mình trao đổi đôi điều…
– Nếu em muốn và rảnh thực sự thì cứ đến. Anh sẵn chờ.
Chè tươi, trà mộc, trà tàu, nụ vối…
– Anh sắp sẵn trà đợi em đến đây.
– Trà gì vậy anh?
– Trà mộc Thái Nguyên.. Hai năm nay em không đến anh thường nên chắc quên.
– Trước đây anh uống trà xanh Nhật bản.
– À. Mấy năm trước đây chưa có thường xuyên trà Thái Nguyên, anh chỉ mua trà xanh Nhật để uống… Nhưng mà, phải rồi, trà này đậm và chát, có lẽ khó uống thật đấy?.
– Uống lọai trà không quen, em sợ khó ngủ.
– Thôi để anh pha cho em trà xanh Nhật bản vậy…Thế nào? Được chứ?
– Dạ, ngon. Cảm ơn anh. Tại sao lại gọi là trà mộc, anh?
– Ấy. Không pha ướp gì thì gọi là trà mộc. Khác với các loại trà khác, như trà ướp với hương hoa sen thì người ta gọi tắt là trà ướp sen, trà sen. Trà ướp hoa ngâu, trà ướp hoa nhài..
– Trà được ướp hoa sen thật sự, hả anh? – Đúng rồi. Nhưng ngày xưa cơ, thời mà người ta còn cầu kỳ đến độ cho trà vào từng búp sen, bó lại để vài ngày sau mới lấy ra uống. Chứ bây giờ thì kỹ nghệ hóa cả rồi, trà hái lá xuống là người ta cho sấy khô rồi xịt hóa chất mùi hoa sen vào, mua uống không còn thơm thoang thoảng mà xộc hắc đấy hóa chất có mùi hoa sen.
– Thế còn trà anh đang uống là trà Thái Nguyên?
– Đúng vậy. Trước Bẩy lăm, ở Miền Nam ta, hầu hết ai cũng biết đến trà Bảo Lộc: Những đồi trồng trà trên vùng Bảo Lộc, trên đường lên ĐàLạt ấy. Người ta hái lá trà đem sấy khô rồi mới ủ thành trà để có thể bảo quản được lâu.
Nước của lọai trà Bảo Lộc này pha ra thường có màu vàng sậm ngả sang đỏ. Sau Bẩy Lăm, ở tù ngòai Bắc, anh mới biết rằng từ năm Năm Tư dân ngòai ấy hầu hết không còn có cà phê để uống mà chỉ trà làm chính. Mà trà rẻ tiền
nhất là lọai trà không pha chế gì cả, hái xuống rồi phơi ngòai nắng cho khô quắt lại rồi mới ủ, những đọt lá trà hình cong queo như cái móc câu để câu cá, cho nên người ta nôm na gọi là trà móc câu. Và lọai trà này truyền thống
được gây trồng trên vùng đồi núi thuộc tỉnh Thái Nguyên, nên người ta cũng có thể gọi thành trà mộc Thái Nguyên là vậy.
– Trà ấy uống quá gắt.
– Em thử nghĩ coi: Một ly mà cho vào ít nhất là hai phần ba trà rồi mới đổ nước, nó nở ra gần như đặc sệt những lá trà, uống vào ba phần chát một phần đắng, giúp vừa tỉnh táo lại vừa cồn cào, dễ đánh lừa cái bao tử luôn luôn trống rỗng của người tù! Nước lọai trà mộc đặc như thế thường màu xanh đậm ngả vàng ửng. Mấy năm trời uống riết tòan lọai trà mộc này, bảo sao anh không ghiền cho được…
– Em vẫn nghe người gốc Bắc Việt Nam cứ nói đến chè xanh. Chè xanh là lọai chè đậu xanh hay là chè lá dứa?
– Ấy. Không phải đâu! Chè xanh chúng mình nói đến ở đây không hề là loại thức ăn ngọt, mà là một thứ trà tươi:
Miền quê ngòai Bắc có những lọai cây trồng chuyên để uống giải khát như cây trà cổ thụ cao có khi to lớn bằng hai đầu người đứng, người ta hái lá rồi vò cho nát ra và nấu nứơc uống, gọi nước chè tươi hay chè xanh là để phân biệt với lọai lá trà không trực tiếp uống tươi được mà phải đem phơi rồi ủ lên men như những thứ trà tàu khác. Ngòai ra, ở ngòai Bắc còn thịnh hành lọai giải khát nữa là nước vối và trà nụ vối, uống ấm và lành bụng; phụ nữ thường dùng nước vối, nhất là mới sanh con xong, nhiều hơn là nam giới.
– Còn trà tàu? Có phải trà tàu để chỉ trà của người Trung Hoa chăng?
– Em hỏi bất ngờ, anh chưa có thì giờ để tra cứu cho thật là chính xác. Nhưng theo chỗ anh hiểu xưa nay thì những hiệu trà như Ô Long (Oolong), Long Tĩnh, Thiết Quan Âm… rõ rệt là các lọai trà bắt nguồn sản xuất từ các tỉnh ở bên Trung Hoa. Còn “trà tàu” mình thường gọi, truy nguyên theo anh nghĩ thì có lẽ vì cùng ở cách chế biến, có nghĩa là lá và đọt trà hái xuống, phơi vài nắng cho dôn dốt đi rồi đem sấy khô và ủ, đóng gói trước khi phân phối ra thị trường. Vì cách chế biến giống nhau này mà người quen gọi chung là trà tàu. Còn như trà Bảo Lộc cũng được chế biến theo các công đọan ấy nên cũng có thể được gọi là trà tàu chăng? Tuy nhiên, người ta vẫn thường gọi chính thức là trà Bảo Lộc, bởi lẽ được trồng và chế biến sản xuất tại Bảo Lộc, Việt Nam.. Cũng như thịt kho tàu thì rõ rệt là lọai thịt heo kho theo kiểu đặc biệt Việt, không hề là lọai thức ăn được chế biến thuần túy theo kiểu của người Trung Hoa thường áp dụng đâu!
– Vậy chữ ‘tàu’ ở đây, như trong nhóm chữ “ thịt kho tàu” chắc còn có nghĩa nào khác nữa, phải không anh?
– Có chứ. Trong cuốn sách Nguồn Gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, tác giả Bình Nguyên Lộc bàn về nguồn gốc đa chủng của dân Việt, ông ấy có cho rằng ảnh hưởng của ngôn ngữ các sắc dân Nam Á vào tiếng Việt mà chữ ‘tàu’ ở đây có nghĩa là nhạt, lạt hay kho nhừ, kho dừ nữa…
– Trở lại với vấn đề trà thì ngoài trà Bảo Lộc ra, còn có một thứ trà nào khác xử dụng tên riêng mà phổ biến ở Miền Nam Việt Nam trước 75 nữa không anh?
– Có chứ.. như hồi đầu thập niên 1920, hãng trà bên Pháp đầu tiên có sang khai thác một đồn điền trồng trà trên Pleiku, gọi là đồn điền Ca-tếch-ka, ở cạnh Biển Hồ trên đấy, chẳng hạn… Từ những tên trà như Ca-Tếch- Ka, Bảo
Lộc…, chúng ta có thể suy ra rằng dù vẫn chung gọi là trà tàu nhưng mỗi một lọại cây trà khác giống, được vun trồng ở những vùng địa dư khác nhau về khí hậu, rồi còn xao tẩm, ướp các lọai hoa khác nhau, như trà mạn sen ( trà ướp hay rẩy vào hương vị hoa sen), trà hoa ngâu, trà hoa nhài … Đó thật sự là các lọai trà được trồng – chế biến và sản xuất trên đất nước Việt Nam, mặc dù vẫn có thể nôm na phổ biến gọi tắt là trà tàu.
“Nó lú nhưng chú nó khôn” (**)
– Nhờ anh phân biệt thì em mới hiểu một cách cặn kẽ được như v
– Cũng như những ngày giỗ- kỷ niệm hay lễ- Tết hằng năm thì mỗi dân tộc đều có cả, đều có cùng một mục đích là phổ biến và phát triển những điều kiện sống còn của con người và cho con người; nhưng hình thức và nội dung trực tiếp của các dịp ấy lại đương nhiên phải khác biệt nhau vì chúng phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của khí hậu, thổ ngơi và sức phát triển của sự sống mỗi vùng dân cư khác nhau. Thế mới gọi là văn minh- văn hóa chứ.
– Anh bàn luận vậy, em lại mới nẩy ra thắc mắc: Giỗ cậu- mợ, tất cả anh chị em mình phải có mặt, đó là lẽ đương nhiên rồi. Nhưng còn bảo rằng bắt buộc mấy đứa con cháu chúng ta cũng không được vắng mặt…
– Em ạ. Anh xin nhắc lại, anh chưa bao giờ nói rằng bắt buộc mọi người trong đại gia đình chúng ta đều phải có mặt vào ngày giỗ cậu- mợ cả. Em nên nhớ kỹ dùm cho anh sự khẳng định này nhá!
– Ồ. Xin lỗi… Nhưng anh có bảo rằng các con em cũng nên hiện diện vào ngày giỗ ông-bà nội…
– Đúng vậy. Chúng nó nên có mặt vào những ngày giỗ ông bà cha mẹ.., nói chung là những ngày hiệp kỵ tổ tiên của dòng họ mình.
– Giỗ thì đến để lễ lạy trước ban thờ cậu mợ, cúng tàn hết nhang rồi là bày mâm cơm xuống, anh chị em chúng mình ăn uống chung với nhau…
– Phải rồi. Nhưng kể như em vừa nói thì chỉ mới đề cập sơ qua một cách bề ngoài cách thức và nghi lễ thực hiện việc giỗ, như mâm cơm mâm cỗ gồm những món nào thường được chế biến để cúng giỗ, đến các nghi lễ cúng bái vân vân…
– Ăn uống xong, chúng mình ai cũng bận bịu cả nên lại sửa soạn ra về!
– Nếu chỉ có thế thì chúng ta bày vẽ ra việc tổ chức giỗ quải để mà làm gì cho vô ích vậy, em!
– Theo anh, còn những điều gì khác nữa?
– Em ạ. Ngay những thực phẩm nấu cho mâm giỗ, như xu hào, nấm, đậu hũ (đậu phụ)… kết hợp với các món cá, thịt gà thịt heo…được chế biến thành nhiều món và thêm nhiều chất rau đậu tươi khác thường hiện diện trong mâm cơm Việt, cũng đã là thể hiện tầm mức quan trọng, để các con cháu có dịp được nhẩn nha ăn những thứ lành mạnh- tươi, tốt cho cơ thể, khác hẳn với ngày trong tuần chúng ta bận đi làm và trẻ đi học thì người nào cũng đã phải ngốn ngấu nghiến các thức ăn nhanh vội được bày bán phổ biến khắp nơi khắp chốn ở xã hội này. Em thấy không?
– À. Về cái khoản thực phẩm và cách thức ăn uống sao cho lành mạnh, hợp với điều kiện sức khỏe như anh vừa nói thì em đồng ý. Còn nhớ hồi em còn nhỏ, anh thường nhắc đi nhắc lại nhiều lần những câu tục ngữ ca dao như “Nhai kỹ- No lâu”, “Ăn phải nhai cho kỹ- nghĩ phải ngẫm cho sâu” …
– Đại khái là thế. Nhưng thêm vào đó, nội dung của những ngày giỗ ấy còn có ý nghĩa sâu xa khác hơn nữa. Chẳng hạn như đấy là dịp họp mặt đại gia đình ( bởi mỗi năm chỉ có vài ngày giỗ kỵ ấy thôi), để cho con cháu có di6p hằng năm cụ thể nhận biết và gắn bó nhau qua mối liên hệ gia đình thân thuộc nội ngọai họ hàng với nhau, để chúng nó được tự nhiên gặp gỡ tiếp xúc chuyện trò thân mật với nhau, trao đổi những kinh nghiệm học hành, cởi mở tâm tình mà làm quen dần với vấn đề giao tế rộng dần ra ngoài xã hội một cách bổ ích cụ thể cho cá nhân từng đứa con đứa cháu của chúng ta…
– Ồ…
– Chưa hết đâu! Đây cũng còn là lúc tất cả chúng ta có được cơ hội nhắc nhớ đến công ơn sinh thành của cha mẹ của ông bà tổ tiên mình, cụ thể là hững nét đặc biệt tiêu biểu trong đời sống thực tế ngày trước đây của các cụ, tất cả những gì các cụ đã từng trải để con cháu biết, tốt lẫn xấu, đúng và sai, để chúng ta học hỏi và áp dụng vào chính đời sống của chúng ta hiện giờ.
– Hồi trước năm Bẩy Lăm ở trong nước, em cũng đã từng gián tiếp được nghe kể chuyện về cuộc đời của các cụ…
– Đấy! Ngày giỗ có chiều sâu cụ thể hữu ích đến như vậy. Tuy nhiên, vẫn chưa dừng ở mức ấy. Buổi giỗ kỵ còn được bao trùm bằng cái bầu không gian xum họp đại gia đình, nó tiêu biểu cho nét văn hóa mang tính chất tôn giáo của dân tộc Việt là thờ cúng tổ tiên và các anh hùng – liệt nữ trong suốt dòng lịch sử dựng nước và khai phá cho dân tộc được trường tồn.
– Ồ. Chưa bao giờ em được trực tiếp nhắc nhở đến những điều anh vừa nói…
– Những yều tố anh vừa nhắc tới đây chính là những điều bổ ích về tâm thần, chúng ta có thể cụ thể bảo đấy là những “món ăn” lành mạnh của tinh thần, của văn hóa- văn minh một dân tộc..
– Quan trong đến như vậy sao anh!
– Đúng vậy. Bởi vì hồi mình ở trong nước, em hãy còn nhỏ…Tuy nhiên, điểm quan trọng em cần nhận rõ ra rằng chính khi em được sinh sống vào thuở ấy, em đã từng sống hằng ngày hằng tháng hằng năm trong bầu không khí
vốn sẵn chan hòa một cách tự nhiên cái nề nếp ấy..
– Hồi đó em đã sống trong đó, nhưng lại chưa bao giờ có được cái thắc mắc để mà nhận biết được tầm mức quan trọng của nếp sống ấy…
– Là bởi vì em mới chỉ sống trong bầu không gian ấy từ lúc sinh ra cho đến lớp tuổi mới thiếu niên. Thế rồi sang đây mấy chục năm nay, năm nào em cũng đều được tham dự những lần giỗ chạp nhưng mà em vẫn chỉ có mặt với một thái độ vẩn vơ “hưởng” mà thôi, phải không?– Không hẳn như vậy… Mà dường như mỗi lần đến ăn giỗ cậu mợ, em vẫn thường có cảm giác khá mơ hồ trong thâm tâm, như em vừa liên tưởng vừa tiếc nhớ tới bầu không khí giỗ chạp xa xưa ở quê nhà…
– Phải rồi. Em mới chỉ cảm thấy tiếc nhớ cái không gian thân thương cũ ấy một cách mơ màng thôi.
– Đúng thế! Tại sao vậy nhỉ?..
– Là bởi vì mười mấy năm được sống trong nước, chưa có đủ lâu để em có thể thấm cái nếp sống ấy. Cái nề nếp ấy chưa đủ chín mùi và sống động trong tâm tưởng con người của em. Cái nề nếp ấy nó chưa đủ lực tự động biến thành một sức mạnh để thúc đẩy ký ức của em phải bật lên thắc mắc trong tâm trí của em, để chính em phải tự đặt câu hỏi cho mình, để tự em phải tra vấn mình, để tự em bắt buộc mình phải trực tiếp tìm hiểu cho rõ ngọn nguồn về cái nếp văn hóa Giỗ Tết mà mình đã từng được hưởng thụ trong quá khứ…
– Và bây giờ, nhờ anh khơi dậy, em mới thực sự hiểu đến cái chiều sâu ấy…
– Nghe anh tạm thời phân tích như thế thì em đã nhận ra được tầm mức quan trọng ấy chưa?
– Vâng . Anh nói cặn kẽ như vậy, em mới chớm cảm nhận được …
– Đó.Thấy chưa. Thế hệ của em mà còn cảm nhận một cách mơ hồ như vậy. Nói chi đến lớp con cháu của em… Nghĩa là anh muốn nhấn mạnh đến tầm mức hiểu và thực hành cái nếp văn hóa ấy, qua ba thế hệ liên tiếp nhau từ anh sang em và bọn trẻ con cháu hiện giờ của chúng ta. Nghĩa là anh muốn phân tích rằng thế hệ của anh trên nửa đời người được tắm đẫm cái nếp sống văn hóa ấy mà khi ra sống ở nước người, anh mới có cái sức thúc đẩy tự động mình tìm hiểu vào sâu xa đến cái chiều sâu của nền văn hóa dân ộc. Rồi khi chuyển tải vấn đề văn hóa ấy từ anh sang em, thì lại phải nhờ vào căn bản là anh đã có cơ hội trực tiếp hướng dẫn em từ nhỏ, ít ra em cũng vốn sẵn phần nào tin cậy ở anh, nên khi nghe anh trình bày thì em mới chịu khó để tâm nghe, suy nghĩ vào sâu, và tích cực truy tìm cho ra lẽ vấn đề. Phải không?
– Thưa vâng…
– Suy từ sự trao đổi bàn luận vừa qua giữa anh em mình, anh nhận thấy rằng nếu em còn muốn tiếp tục trao truyền nếp văn hóa trong đời sống của bọn trẻ bây giờ, thì em phải bỏ công kiên nhẫn dài hạn trong quá trình nhắc nhở và luôn tạo điều kiện nhằm thúc đẩy các con các cháu của em để chúng nó làm quen dần cái thông lệ hằng năm tham dự ngày giỗ cậu- mợ của chúng mình, mà cũng là buổi kỵ giỗ ông bà nội chúng nó. Nếu không kiên trì dụng công nuôi dưỡng cái nề nếp ấy thì anh có thể đoan chắc một điều rằng chúng nó thực sự sẽ không bao giờ có thể có được cái “vốn liếng” thâm sâu thấm nhuần được đặc chất văn hóa Việt trong suốt cuộc đời của chúng, bây giờ và mai sau.
– Nghe anh cặn kẽ phân giải và nhắc nhớ, em sẽ cố gắng lưu ý để áp dụng.
– Nhưng em cũng nên chuẩn bị trước đâu vào đó cái việc thực hiện điều ình muốn làm, nếu em thực sự cho ý kiến đóng góp của anh là cần thiết.
– Đương nhiên rồi…Tuy nhiên, theo anh thì em bắt đầu như thế nào cho có lớp lang, cho có hiệu quả như ước muốn… – Anh cho rằng trước hết em cần phải từ tốn dẫn giải thuyết phục vợ em cho cô ấy cũng thông suốt vấn đề như em đã, sau đó rồi vợ chồng mới bàn tính kế hoạch lâu dài áp dụng ra sao một cách dần dà rỉ rả về lâu về dài để hướng dẫn con cháu, để chúng nó thấm dần từ lần này sang lần khác, năm này sang năm khác, quen dần với sinh họat cúng giỗ, hòa nhập với nếp văn hóa của dân tộc mình là thờ cúng tổ tiên cũng như noi gương các anh hùng liệt nữ có công dựng và giữ nước. Chậm mà chắc, em ạ.
“Chim có tổ, người có tông” (”**)
– Thưa vâng. Nhưng nhân tiện đây, em thắc mắc xin hỏi tiếp: Nếp sống của chúng ta có tục lệ thờ cúng tổ tiên và anh hùng liệt nữ của dân tộc. Dựa vào đâu mà anh kết luận như vậy?
– Dựa vào lịch sử phát triển sống còn của dòng giống dân tộc ta, chứ dựa vào đâu nữa bây giờ!
– Nghĩa là…
– Nghĩa là bắt buộc phải cụ thể dựa vào những diễn tiến các giai đọan của sử Việt Mỗi một giai đọan phát triển của lịch sử dân Việt đều có những điều kiện biến thái khác hẳn nhau, và cho chúng ta hiểu biết những nội dung ý nghĩa phong phú vừa riêng vừa chung mà chúng ta phải biết phân biệt khi hõi hỏi và áp dụng trong hiện tại lẫn tương lai.
– Thí dụ?
– Cụ thể như thời Kỷ nguyên Hùng Vương chẳng hạn…
– Ai trong chúng ta đều biết rằng kỷ nguyên ấy nằm trong thời khuyết sử, nên chỉ để lại những giai đọan huyền sử..
– Đúng. Huyền sử thì có cách riêng để hiểu ý nghĩa nội dung của huyền sử. Chẳng hạn như câu chuyện cổ tích huyền thọai “Lạc Long Quân phối ngẫu với bà Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở ra trăm con, rồi năm mươi con theo mẹ
lên núi và năm mươi con theo cha xuống biển…”chúng ta phải hiểu rằng (*) hai nhân vật huyền thọai Lạc Long Quân- Âu Cơ là tượng trưng cho sự kết hợp của Nam và Nữ, của Dương- Âm. Một sự kết hợp căn bản sản sinh trong
nguyên lý sống của chung vũ trụ- vạn vật * Trăm trứng nở ra trăm con: nói lên diễn trình hằng ngàn năm pha trộn rất nhiều giống dân, rất nhiều sắc tộc ở vùng định cư Đông Nam Á Châu để tạo nên dòng giống Việt ngày nay (*)
Năm mươi con theo mẹ lên núi, năm mươi con theo cha xuống biển: Nói lên ý nghĩa bành trướng dân số và phát triển rộng lớn dần nới chốn ngụ cư thuở “đầu đời” của dân tộc Việt
– Mấy ý nghĩa từ huyền sử ấy phải có thêm những chứng cứ nào khác để có thể gọi là tạo thêm vững mạnh lý lẽ suy luận như anh vừa nói chăng?
– Có chứ. Chẳng hạn một cách đơn giản và thực tế nhất là từ vốn liếng tục ngữ ca dao Việt. Thì “ trăm trứng nở ra trăm con” phù hợp với ý nghĩa Bách Việt. Như tích “ Năm mươi con theo mẹ lên núi, năm mươi con theo cha xuống biển ăn với câu “Ai đưa ta tới chốn này: bên kia là núi , biển này biển khơi”.
– Vậy từ căn bản mấy ý nghĩa của huyển sử mà anh vừa tiêu biểu nêu ra như trên, dân ta khẳng định được điều gì?
– Như bất cứ dân tộc nào khác, dân Việt cũng tự xác định về nguồn gốc mình bằng những câu đại khái như: “ Chim có tổ, Người có tông”, hay “Cây có cội, Nước có nguồn”– Sau thuở hồng hoang, những ý nghĩa đầu đời ấy có được dân tộc ta tiếp tục phát triển và ghi nhận hay không, hở anh?
– Sao lại không! Chẳng hạn ngay sau kỷ nguyên Hùng Vương, dân Việt ta bị liên tiếp bao nhiêu lần Bắc thuộc kéo dài trên mười thế kỷ thì cũng có biết bao nhiêu những lần quật khởi giành độc lập đã xảy ra. Trong đó cụ thể là sự kiện Hai Bà Trưng (39- 42 ) và Bà Triệu (225- 248) khởi nghĩa chống ngọai xâm, khiến cho dân Việt rạng danh nữ anh thư cứu nước. Rồi Phùng Hưng (?- 791) vùng lên và được dân xưng tụng là Bố Cái( cha-mẹ) Đại Vương.
– Thế thì theo anh, trên mười thế kỷ bị Bắc thuộc có để lại cho những bài học đáng giá nào và dân Việt ta học hỏi và tạo đuợc cái nếp văn hóa gì?
– Đi vào chi tiết thì quá nhiều bài học đắt giá cho muôn đời sau. Tóm tắt lại chúng ta có thể liệt kê mấy điểm chính:
Đầu tiên dân ta thực tế hóa được rằng nước ta là một nước quá nhỏ bên cạnh một nước nước quá lớn luôn có ý đồ xâm lấn và nuốt chửng mình thì ta phải một mặt nuôi dưỡng bản chất kiên trì và mền mỏng để thích ứng với bất cứ một hoàn cảnh khắc nghiệt nào, qua một lọat những câu tục ngữ nhắc nhở: “ sông có khúc, người có lúc”, “ nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”, “ ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “ nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”.., và nhất là luôn luôn cầu tiến: “ Con hơn cha là nhà có phúc” ; mặt khác dân ta lại nung nấu cái ý chí quật cường trong quá trình tự chủ, hình thành một nếp văn hóa thờ cúng tổ tiên và các anh hùng liệt nữ trong công cuộc cứu và giữ nước…
– Đến gần mười thế kỷ độc lập tự chủ sau đó, chúng ta thêm được những bài học nào, theo anh?
– Mấy thế kỷ đầu độc lập, chúng ta còn sôi nổi cảnh giác và tiếp tục học hỏi được khá nhiều điều đáng kể. Chẳng hạn như ba lần chống quân Nguyên xâm lăng, ít nhất triều đại Nhà Trần đã thành tựu ba điểm vĩ đại: Thứ nhất, Trần Hưng Đạo (1232- 1300) là nhân vật có thật trong lịch sử mà được dân phong thánh nhờ vào 2 yếu tố nổi bật là biết chọn thù nước trước thù nhà và chuẩn bị đủ ba hội nghị (tộc hội Bình Than 1282, quốc hội Diên Hồng 1284, quân hội Vạn Kiếp 1285) thống nhất ý chí toàn dân tòan quân mà linh động dốc tòan lực để thắng địch, trong đó có việc trưng dụng hữu hiệu quân dân thiểu số chống giặc tiến và lui, thể hiện thống thiết nghĩa tình ‘đồng bào’ qua câu ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Thứ hai, với Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, vua Trần Nhân Tông ( 1258- 1308) lập ra phái Thiền Trúc Lâm, gom Nho-Lão-Phật lại thành tam giáo đồng nguyên nhờ vào tín ngưỡng dân tộc làm chính, và chọn núi Yên tử trong dãy Đông Triều làm nơi ẩn tu (1299) như một tiền đồn gác giặc phương Bắc, xứng danh Giác Hòang Điều Ngự.
Thứ ba là áp dụng nhuần nhuyễn tinh thần bất khuất, thể hiện qua thái độ đối đãi kiên trì mà linh động mềm mỏng, mở đầu cuộc mở mang bờ cõi cho bốn năm thế kỷ sau đó, đưa đến sự hòa nhập dân cư lẫn văn minh văn hóa của các dân tộc Chăm, Khờ Me, vân vân. Thậm chí đến cuối thế kỷ 19, thời mà dân ta chống lại sự kiện Pháp đặt nền móng thuộc địa tại nước ta thì đã có không biết bao nhiêu nhân vật yêu nước gốc người Minh Hương mà tự họ đã hành động như người dân Việt chính cống (như Phan Thanh Giản 1796 –1867, Lâm Duy Hiệp 1806 -1863 .. ) Sự hòa nhập của các dân tộc vào thành dân Việt này đã biến hai vùng đất mới thành Trung và Nam Phần của Việt Nam như ngày nay. Sự kiện lịch sử này thể hiện không những là kết quả của kinh nghiệm trên 10 thế kỷ nuôi dưỡng tinh thần tự chủ, không bị dân tộc Bắc phương đồng hóa, mà còn là kết quả của nét văn hóa dung hợp kết tinh đa chủng và nặng lòng tha thiết hy sinh cho tương lai thế hệ con cháu qua câu ca dao:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông với tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.”
– Thế còn những sai lạc của lịch sử Việt ở độ sáu thế kỷ gần đây thì không có chút gì minh chứng hay sao anh?
– Cảm ơn em đã thành thật thắc mắc, như một cách chủ động nhắc nhở anh. Thực ra cái triết lý sống còn của dân tộc ta vốn đã ngầm chất chứa một lựa chọn sinh động là luôn phải biết cảnh giác với cái bản chất đã thủ đắc được
nhờ trải nghiệm sương máu qua lịch sử mà hình thành. Thí dụ như nếp sống đã bất khuất thì thường là quá khích, kiên trì nhưng cũng dễ bảo thủ, linh động lại hay trở nên thụ động, dễ bị cuốn hút và quen dần đi thành vô thức mà thụ động, dễ bị sai khiến…Đó là những lằn ranh mà thái độ sống của chúng ta nếu không luôn luôn trau dồi sự sáng suốt điều chỉnh thì rất chao đảo, thiên vị và sai khác đi liền…
“Tâm tình một nẻo quê chung” (***)
– Anh có thể đưa vào những sự kiện lịch sử cụ thể chứng minh cho em hiểu rõ hơn được chăng?
– Thí dụ cụ thể như giai đọan trên mười thế kỷ (đầu kỷ nguyên Tây lịch) bị Bắc phương đô hộ, dân tộc ta liên tiếp cả chục lần vùng lên, vùng lên rồi thất bại.. nhưng vẫn không nản chí, vẫn cứ vùng lên nữa, để sau cùng mới có đuợc Ngô Quyền rồi Đinh Bộ Lĩnh mở đầu cho kỷ nguyên dân ta giành lại được độc lập một cách tự chủ. Sự kiện lịch sử này theo em thì được chứng minh điều gì?
– Nhờ vậy mà dân tộc ta thủ đắc được đức tính kiên trì, quật cường.
– Anh cũng nghĩ thế. Nhưng ngay sau đấy,lại có một sự kiện là bà Dương Vân Nga (952- 1000) làm hòang hậu tới hai đời vua khác triều đại, và tạo ra một hiện tượng có một không hai trong lịch sử nước ta ở điểm là bà đã có những quyết định uyển chuyển linh động một cách sáng suốt chưa từng có trong lịch sử.
– Chi tiết ra sao, anh?
– Vua Đinh Tiên Hòang lên ngội hòang đế năm 968, phong bà Dương Vân Nga làm một trong năm vị Hòang Hậu vợ ông. Năm 979 vua Đinh bị ám sát chết, con bà là Đinh Tòan mới 6 tuổi lên nối ngôi, bà trở thành Thái Hậu. Năm 980 quân nhà Tống bên Tàu chuẩn bị đem quân sang xâm chiếm nước ta, lúc ấy Lê Hòan là Thập đại tướng quân thống lĩnh ba quân. Thái hậu đã vận động tôn Lê Hòan lên làm vua, tức vua Lê Đại Hành. Sau khi chiến thắng quân Tống, Lê Hòan lập nên triều đại Tiền Lê, Dương Vân Nga lại trở thành một trong năm hòang hậu của vua Lê Đại Hành.
– Thế người đời nhận định sự thể này ra sao, anh?
– Các sử gia trước đây (như Ngô Sĩ Liên, Ngô Thời Sĩ…) chê trách sự kiện này. Riêng trong một bài viết cách đây trên nửa thế kỷ, ông Hòang Xuân Hãn đã nhìn ra: “Việc này trái với khuôn phép nhà nho… Các nho gia phê bình cũng không ai trách bà (Dương Vân Nga) mà chỉ trách Lê Hòan…” Nhưng cho đến nay, trên 10 thế kỷ rồi, cả bà Dương Vân Nga lẫn Lê Hòan đều được thờ ở đền tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình (1)
– Như vậy là dân chúng coi trọng sự kiện lịch sử này?… Nhưng ít nhất sự kiện lịch sử ấy nói lên nội dung ý nghĩa gì, anh nhỉ?
– Theo anh, sự kiện lịch sử này cho ta hiểu rằng trong hòan cảnh một nước nhỏ yếu đang ở cạnh nước lớn hơn mình nhiều lần mà luôn chỉ chờ cơ hội nuốt chửng mình thì bắt buộc phải kiên trì, quật cường nhưng đồng thời cũng phải luôn luôn linh động sáng suốt, trở thành hai yếu tố chính của một nếp văn hóa cho dân tộc Việt thì mới có thể sống còn, mới tránh khỏi nguy cơ mất nước, diệt vong. Thêm nữa, thái độ ‘sống’ của Lê Hòan và Dương Vân Nga còn cho ta thấy rõ rằng dân ta không hề bị trói buộc vào cái gọi là khuôn phép qui tắc của Nho giáo đã từ bên Tàu lan truyền qua trong giai đọan trên 10 thế kỷ bị đô hộ ngay trước đó…
– Anh nói thái độ sống ấy đã trở thành nếp văn hóa của dân Việt…?
– Đúng vậy. Bởi trong suốt mấy trăm năm ở hai triều đại Lý- Trần kế tiếp đã có thêm rất nhiều trường hợp cá nhân cụ thể minh chứng cho nếp sống ấy. Chẳng hạn như vua Lý Công Uẩn (974- 1028), theo giai thọai thì phát xuất từ một chú tiểu ở chùa, ngài nhờ công trạng mà vượt lên thành nhà lãnh đạo. Như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1230- 1300) đã biết dẹp thù nhà để lo việc chống quân xâm lược Mông Cổ ba lần. Như Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (1230- 1291) vốn là một cư sĩ phật tử mà đã tuyên bố “.. Phật là Phật, ta là ta..”, và sống một đời sống Thiền giữa đời, ‘thõng tay vào chợ”. Như Giác Hòang Điều Ngự -Trần Nhân Tôn (1258- 1308) đã vì nước lâm nguy mà bỏ ý định ẩn tu, về lo việc nước; rồi sau khi chống quân xâm lăng xong, lên làm Thái Thượng Hòang nhưng ngài đã chọn núi Yên Tử là nơi tiếp tục tu hành để “gác giặc”… Đấy. Kể sơ ra mấy nhân vật tiêu biểu nêu trên, chúng ta đủ thấy rằng phải cả trăm năm thực thi nếp văn hóa ấy để thấm nhuần thành một quan niệm ’tam giáo đồng nguyên’, nghĩa là ba tôn giáo Phật- Nho- Lão du nhập vào và được điều hợp bằng thái độ sống ấy để cùng hiện diện bình đẳng như nhau trong xã hội Việt thời bấy giờ.
– Đó là chuyện ngày xưa.Thế còn ngày nay, có hiện tượng nào thể hiện lên cái nếp văn hóa này không anh?
– Sao không! Dưới chế độ độc đảng cai trị ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 thì phong trào đòi tự do của Nhân Văn Giai Phẩm bị trấn áp tháng 6- 1958 cho đến nay thì hiện ở trong nước mấy chục năm rồi phong trào tranh đấu đòi tự do – nhân quyền mỗi lúc một lan rộng và hữu hiệu là đều nhờ cả vào những tiến công tích cực của nhân vật không những đơn độc mà còn của các cá nhân thuộc những bộ phận tôn giáo như Phật giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành .. nữa.
– Nhưng cạnh đấy chắc vẫn không thiếu gì những hành động và suy nghĩ sai khác với nếp văn hóa ấy chứ?
– Đuơng nhiên là rẫy đầy những sai khác.. Nhưng nếu nếp văn hóa ấy luôn luôn được bồi đắp một cách tích cực thì những sai khác sẽ tự động được điều chỉnh từ từ.
– Anh thử đưa ra một thí dụ cụ thể nào, được không?
– Được.. nhưng nếu mình đưa ra một hành động, một thái đô sai khác nào đó thì dễ bị hiểu lầm là mình muốn chỉ trích, làm mất hòa khí vốn rất cần thiết hiện nay. Anh chỉ nêu một thí dụ thiên về lãnh vực văn chương để giảm thiểu đi cường độ soi mói của nhận xét. Cấp thời anh liên tưởng đến câu thơ trong bài “Nhớ Chùa Huyền Không” sáng tác từ năm 1952:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”
Theo như anh nghĩ, ông vốn là một vị tăng sĩ đi tu từ nhỏ nên khi phát biểu như vậy là mặc nhiên ông cho thấy mình bị chi phối mạnh từ màu sắc tôn giáo. Thực ra là ông ý muốn diễn tả rằng:
“Mái chùa thấm đẫm hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”. /.
Phạm Quốc Bảo.
Chú thích:
Chúc Tết
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước; đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết ở trên đời
Vua, quan, sĩ, thứ, người trong nước
Sao được cho ra cái giống người. [Trần Tế Xương (1870- 1907)]
Bài hát nói: Hương Sơn Phong Cảnh của Chu Mạnh Trinh:
Bốn câu mưỡu đầu:
Lên chùa chân bước khoan khoan
Khi mô mô Phật, khi tang tang tình
Thuyền lan một lá xinh xinh
Non non nước mình mình ta ta.
Hát nói:
Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?
Thỏ thẻ rừng Mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình:
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập gềnh mấy lối uốn thang mây.
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hoá khéo ra tay sắp đặt?
Lần tràng hạt niệm “Nam mô Phật”,
Cửa từ bi công đức biết là bao.
Càng trông phong cảnh càng yêu!
– Giai thoại về Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (1230- 1291), một thiền sư, Thượng Sĩ Ngữ Lục, anh ruột của Trần Hưng Đạo: “Một hôm, hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn
mặn và chay. Tuệ Trung Thượng Sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn. Hoàng thái hậu hỏi: “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được ?” Ông cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật. Phật cũng không cần thành anh. Em không miệt- nghe các bậc cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?” Trong bữa tiệc này có vua Trần Nhân Tông; vua rất thắc mắc về việc này và chưa hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng chưa tiện hỏi.”
– Cao Bá Quát (1809- 1855) là một trí thức tiên phong đã cảm nhận được những tiến bộ khoa học kỹ thuật của Phương Tây qua những chứng kiến cụ thể về quân sự, giáo dục, sự thăng tiến đời sống lẫn nền văn minh nói chung, nhờ vào những thơ văn sáng tác sau dịp tham dự vào phái bộ sang Tân Gia Ba, vào năm 1844. Như mấy câu thơ tiêu biểu:
“Tân Gia từ vượt con tàu, Mới hay vũ trụ một bầu bao la, Giật mình khi ở xó nhà. Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi. Không đi khắp bốn phương trời. Vùi đầu án sách uổng đời làm trai.. “
trích “Thử Tìm Hiểu Về Chuyến Đi Công Vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát”, bài của Vĩnh Sính, giáo sư Sử học thuộc đại học Alberta, Canada). ./.
Phạm Quốc Bảo
Chú thích: (*) Câu này là ca dao Việt Nam, bài này được edit cho đăng lại khi tác giả vừa biết đến chương trình “Ước Mơ Việt” do básc sĩ Đỗ Thiên Hương chủ trương; muốn tìm hiểu vào chi tiết chương trình này, xin vào ctuocmoviet@org
(**) Tục ngữ Việt Nam
(***) Một câu thơ của Huy Cận(1919-2005)
(1) Trích từ mục “Hoàng hậu Dương Vân Nga”, trong Google.
(Nguồn: Trích Tuyển tập “Tâm Tình Một Nẻo Quê Chung”– Người Việt Books xuất bản, 2015)