Nguyễn Thành Trung –
Cách mạng Văn hóa, với tên gọi đầy đủ là Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, là một trong những chiến dịch tuyên truyền lớn nhất và quan trọng nhất của Mao Trạch Đông, gây nên một giai đoạn hỗn loạn xã hội kéo dài suốt một thập kỷ tại Trung Quốc. Các nhà bình luận đưa ra những mốc thời gian khác nhau nhưng Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định Cách mạng Văn hóa kéo dài từ tháng 05 năm 1966 đến tháng 10 năm 1976.
Sau khi thôi chức Chủ tịch nước do những sai lầm nghiêm trọng trong Đại nhảy vọt, Mao Trạch Đông vào đầu thập niên 1960 bắt đầu chống lại các chính sách kinh tế ôn hòa được khởi xướng bởi nhóm lãnh đạo mới đứng đầu là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, cũng như ảnh hưởng ngày một gia tăng của nhóm này. Mao Trạch Đông cho rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc phải thể hiện đặc tính của một giai cấp lãnh đạo mới, tức là quyền lực không phải nằm ở việc nắm quyền sở hữu mà ở quyền kiểm soát phương thức sản xuất. Ông cho rằng những chính sách kinh tế và khuynh hướng chính trị do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đang thực hiện thể hiện một đường lối mà nếu không được kiểm tra, có thể dẫn đến “sự hồi phục chủ nghĩa tư bản”.
Do đó Cách mạng Văn hoá thực chất là cuộc đấu tranh giữa phe của Mao Trạch Đông và những người ủng hộ đường lối cứng rắn của ông chống lại phe của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Đối với Mao Trạch Đông, Cách mạng Văn hóa cũng là cuộc chiến về những vấn đề chính sách cơ bản quyết định Trung Quốc sẽ đi theo hướng nào. Mao Trạch Đông tin rằng cần phải tăng cường quốc hữu hóa nền kinh tế Trung Quốc và liên tục tổ chức cách mạng triệt để thông qua các chiến dịch, vừa để tập hợp quần chúng vừa ngăn ngừa Đảng và cán bộ xa rời cách mạng. Trong khi đó, Lưu Thiếu Kỳ lại cho rằng cần phải hoạch định chính sách cẩn thận dựa trên sự kiểm soát của Đảng. Mao tin rằng các chính sách của Lưu tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp tư sản mới xuất hiện, và chính vì vậy những người bị gán “đi theo con đường tư bản chủ nghĩa” như Lưu Thiếu Kỳ và những người ủng hộ ông ta trở thành mục tiêu tấn công chính trong Cách mạng Văn hóa.
Do bị cô lập trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao chuyển hướng sang giới học sinh sinh viên và Giải phóng Quân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Lâm Bưu để giành ủng hộ trong đấu tranh chống lại “những kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa” trong Đảng.
Mặc dù vậy, Cách mạng Văn hóa được châm ngòi ban đầu từ việc nhà sử học Ngô Hàm, lúc đó là Phó Thị trưởng Bắc Kinh vào năm 1959 đã cho ra đời bộ kịch lịch sử mang tên Hải Thụy bãi quan, kể về việc một người đầy tớ trung thành tên là Hải Thụy bị vị hoàng đế biến chất sa thải. Dù vở kịch được Mao ca ngợi nhưng năm 1965 vợ Mao Trạch Đông là Giang Thanh cùng Diêu Văn Nguyên, biên tập viên một tờ báo ở Thượng Hải, đã viết bài báo công kích vở kịch. Diêu Văn Nguyên gọi vở kịch là “một thứ cỏ độc” nhằm hãm hại Mao khi có ngụ ý so sánh Mao như vị hoàng đế suy đồi và tôn vinh Bành Đức Hoài, người từng là Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc nhưng bị Mao quy kết là tiêu cực, đình chỉ chức vụ và quản chế tại gia vì dám chỉ trích Đại nhảy vọt vào năm 1959.
Bài báo của Dương Văn Nguyên lan truyền nhanh chóng nhưng một Ủy ban nghiên cứu bài báo thành lập bởi Thị trưởng Bắc Kinh là Bành Chấn, một người ủng hộ Ngô Hàm, đã công bố rằng những chỉ trích của Diêu Văn Nguyên là không có cơ sở. Ngày 12 tháng 2 năm 1966, Ủy ban này cũng đã công bố một báo cáo nhằm phi chính trị hóa và giới hạn cuộc tranh luận về nhân vật Hải Thụy trong khuôn khổ văn chương. Tuy nhiên, Giang Thanh và Diêu Văn Nguyên tiếp tục chỉ trích Ngô Hàm và Bành Chấn trên báo chí.
Ngày 16 tháng 5, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự chỉ đạo của Mao Trạch Đông đã ra một thông báo chính thức về cuộc Đại Cách mạng văn hóa, trong đó chỉ trích gay gắt Bành Chấn cùng những người ủng hộ và thay thế Ủy ban của Bành Chấn bằng Nhóm Cách mạng văn hóa do Giang Thanh đứng đầu. Ngày 25 tháng 5, một giảng viên triết học tại Đại học Bắc Kinh đã viết một áp phích lớn dán ở bảng tin công cộng công kích giới lãnh đạo Đảng trong trường và các quan chức của Đảng ở Bắc Kinh là chống Đảng và ngăn chặn tiến trình cách mạng. Vài ngày sau, Mao cho phổ biến tấm áp phích khắp nước. Ngày 29 tháng 5, tại Đại học Thanh Hoa, đơn vị Hồng vệ binh đầu tiên được thành lập với mục đích trừng phạt và cô lập giới trí thức lẫn những kẻ thù chính trị của Mao. Tiếp đó, ngày 1 tháng 6 năm 1966, tờ Nhân dân Nhật báo đã phát động một cuộc công kích vào các lực lượng phản động trong giới trí thức. Sau đó, nhiều lãnh đạo các trường đại học và nhiều nhà trí thức nổi tiếng bị truy tố.
Trong bối cảnh đó, để tấn công Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình cùng những người ủng hộ, Mao tuyên bố rằng, bất chấp cuộc Cách mạng vô sản đã được tiến hành, giai cấp thống trị vẫn bị chi phối bởi các thành phần tư sản và những người theo chủ nghĩa xét lại, và các thành phần phản cách mạng này vẫn còn tồn tại, thậm chí ngay trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của Đảng.
Việc đàn áp các đối tượng “phản cách mạng” nhận được sự hỗ trợ tích cực của lực lượng Hồng vệ binh. Mặc dù được lưu ý không sử dụng bạo lực nhưng các Hồng vệ binh đã không chú ý tới huấn thị, dẫn tới các hành động quá khích và bạo lực tăng cao vào cuối năm 1966 và đầu năm 1967 khiến Giải phóng Quân Trung Quốc phải mở rộng kiểm soát ở nhiều cấp chính quyền dân sự nhằm khôi phục ổn định. Sự hiện diện của quân đội cũng ngày càng tăng ở các hội đồng cách mạng mới thành lập. Mặc dù vậy, các hoạt động quá khích của lực lượng Hồng vệ binh, đặc biệt là từ phái cực tả, vẫn tái diễn vào giữa năm 1967. Mao Trạch Đông sau đó phải quyết định kết thúc tình trạng hỗn loạn gây ra bởi các nhóm Hồng vệ binh và căng thẳng giữa quân đội với Hồng vệ binh bằng cách phân công nhiều Hồng vệ binh về vùng nông thôn.
Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 9 tổ chức vào tháng 04 năm 1969 đánh dấu sự kết thúc giai đoạn quan trọng nhất trong Cách mạng Văn hóa và nhấn mạnh tính thống nhất và nhu cầu xây dựng lại Đảng. Những năm sau đó, từ Đại hội Đảng lần thứ 9 cho đến khi Mao qua đời vào năm 1976, đã chứng kiến sự giảm dần các hoạt động quá khích khi Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu xây dựng lại theo đường lối Lêninít và tái khẳng định quyền lực của mình.
Trước khi Mao qua đời vào tháng 09 năm 1976, người ta ước tính có khoảng từ 12 triệu đến 20 triệu người, bao gồm 5,4 triệu Hồng vệ binh, phải đi lao động nặng nhọc ở nông thôn – trong đó có 1 triệu người Thượng Hải, tương đương với 18% dân số thành phố vào lúc đó. Số lượng nạn nhân bị chết trong giai đoạn bi thương này của lịch sử Trung Quốc cũng có nhiều ước tính khác nhau. Nhà nghiên cứu R.J. Rummel ước tính từ 1964 đến 1975 khoảng 7,7 triệu người Trung Quốc bị giết, cùng với 1,5 triệu người chết do liên quan đến đói kém và xung đột dân sự, khiến tổng số người thiệt mạng lên tới 9,2 triệu người. Khoảng 3 triệu Đảng viên bị kỷ luật và cầm tù, và khoảng 60% Đảng viên bị khai trừ, nhiều người trong số họ phải lao động nặng nhọc trong suốt thời gian này. Ngoài ra các trường đại học của Trung Quốc bị đóng cửa suốt trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa khiến cả một thế hệ của Trung Quốc không được hưởng nền giáo dục đại học. Trong những năm 1980, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang nói rõ rằng khoảng 100 triệu người Trung Quốc phải chịu nhiều đau khổ trong Cách mạng Văn hóa.
Theo nghị quyết năm 1981 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc khóa 11, việc nhóm Tứ Nhân Bang bị bắt vào tháng 10.1976 chính thức báo hiệu kết thúc Cách mạng Văn hóa. Cuộc cách mạng này đã “gây ra bất ổn định xã hội, và gây ra thảm họa cho Đảng, nhà nước, và nhân dân”. Mặc dù nghị quyết năm 1981 được coi là kết luận mang tính thẩm quyền nhưng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau từ các nhà phân tích Trung Quốc lẫn phương Tây về nguyên nhân, tiến trình, hậu quả và thậm chí cả các cột mốc ngày tháng của Cách mạng Văn hóa. Do đó tranh cãi về nó vẫn còn tiếp tục.
Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, 2018). http://nghiencuuquocte.org