Tác giả: Ngô Di Lân.
Mục đích chính của bài viết này là đưa ra nhận định về những thách thức chiến lược tiềm tàng cho Việt Nam trong thế kỷ XXI và phác hoạ một số nét chính về bốn đại chiến lược khả dĩ để chúng ta có thể đương đầu với những thách thức này. Bên cạnh đó, tác giả cũng hi vọng rằng bài viết này sẽ giúp khái niệm “đại chiến lược” trở nên gần gũi hơn với các độc giả, đồng thời thôi thúc các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu đề tài đại chiến lược Việt Nam một cách có khoa học và hệ thống hơn.
Bài viết sẽ này có năm phần chính như sau. Phần thứ nhất sẽ giới thiệu một cách tổng quát về khái niệm đại chiến lược. Tiếp theo tác giả sẽ xác định các lợi ích quốc gia cốt lõi của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Trong phần thứ ba, tác giả sẽ phân tích và đánh giá môi trường chiến lược của Việt Nam trong thế kỷ XXI. Phần thứ tư sẽ điểm qua một số nét chính về những đại chiến lược khả dĩ cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Cuối cùng, tác giả sẽ tóm tắt lại đại ý của toàn bài và đưa ra một số nhận định về đại chiến lược hợp lý nhất cho Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.
I/Tổng quan về đại chiến lược:
Đại chiến lược (grand strategy) là một khái niệm thường được các học giả quan hệ quốc tế và chiến lược gia quân sự dùng để chỉ một tổ hợp các nguyên tắc và quan điểm mang tính định hướng chính sách đối ngoại và quốc phòng của một quốc gia. Đại chiến lược chỉ rõ đâu là những lợi ích cao nhất của một quốc gia và đâu là những mối đe dọa chính đối với những lợi ích đó. Một đại chiến lược tốt sẽ xác định rõ thứ tự ưu tiên của các mục tiêu mà một quốc gia muốn theo đuổi và chỉ ra cách tốt nhất để các nhà hoạch định chính sách tận dụng nguồn tài nguyên có hạn của mình nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Hơn nữa, đại chiến lược có thể giúp tránh được sự mâu thuẫn trong các chính sách,đồng thời tạo ra tính kế tục và mạch lạc trong các chính sách ngắn,trung và dài hạn của các quốc gia.Chính vì vậy, việc có được một đại chiến lược rõ ràng, mạch lạc và phù hợp với thời thế là một trong những yếu tố quyết định sự trường tồn và phát triển thịnh vượng của mọi quốc gia.
Nhưng cũng cần phải nói rằng có một đại chiến lược trên“giấy tờ”khác với việc đưa đại chiến lược đó vào thựctiễn.Dù đại chiến lược có tốt đến mấy mà không có nguồnlực để thực thi một cách triệtđể thì sẽ không mang lại hiệu quả.Do đó quốc gia càng hùng mạnh,càng có nhiều nguồn lực và tài nguyên thì càng có khả năng hoạch định và triển khai các chính sách theo đúng những gì đã vạch ra trong đại chiến lược.
Mặc dù vậy, điều này không có nghĩa là đại chiến lược chỉ hữu dụng đối với các nước lớn. Các nước lớn có thể mắc một vài sai lầm nghiêm trọng như Mỹ đã từng gặp ở Việt Nam hay Iraq nhưng họ sẽ vẫn tồn tại. Các nước nhỏ như Việt Nam tuy có ít khả năng để thực hiện được triệt để đại chiến lược hơn so với các nước lớn nhưng lại cần đại chiến lược hơn bởi một sai lầm dù nhỏ vẫn có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường, gây nguy hại tới sự tồn vong của quốc gia. Do đó, đại chiến lược thậm chí còn thiết yếu đối với các nước nhỏ hơn các nước lớn. Trong bối cảnh tình hình an ninh khu vực hết sức phức tạp hiện nay, Việt Nam buộc phải có một đại chiến lược của riêng mình.
II/Lợi ích quốc gia của Việt Nam:
Tất cả các chiến lược và chính sách được đều tạo ra để phục vụ lợi ích quốc gia. Do đó, phải nắm vững được lợi ích quốc gia trước khi phân tích, đề xuất chiến lược và chính sách. Tuy nhiên để có thể “dĩ bất biến, ứng vạn biến” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy thì chúng ta trước tiên phải đánh giá chính xác xem những yếu tố “bất biến” này là gì. Từ góc nhìn của các nhà lãnh đạo Việt Nam thì có thể nói rằng trong thời điểm hiện nay nước ta có ít nhất ba lợi ích quốc gia cốt lõi như sau:
Thứ nhất, và quan trọng hơn hết, là đảm bảo được an ninh quốc gia. Ở đây an ninh quốc gia được hiểu là bảo vệ được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cùng sự bình an của các công dân Việt Nam. Trên thực tế, điều này có nghĩa là chúng ta không bị quân đội nước khác tấn công xâm lược và chính quyền Việt Nam không bị thao túng bởi bất kì thế lực nào từ bên ngoài. Đây là lợi ích quốc gia cao nhất và lợi ích nền tảng vì nếu không đảm bảo được hai điều này thì đất nước và dân tộc Việt Nam không còn là chính mình và không còn khả năng tự quyết định vận mệnh của mình nữa.
Không có đạo quân xâm lược nào quan tâm, chăm lo cho cuộc của người dân nước họ chiếm đóng. Mọi cường quốc dù dưới bất kì hình thức hay màu cờ nào cũng đều chỉ muốn làm lợi cho riêng mình trên lưng nhân dân Việt Nam. Lịch sử ngàn năm Bắc thuộc cho thấy nếu chúng ta muốn một cuộc sống ấm no hạnh phúc thì nhất định người Việt Nam phải làm chủ đất nước của mình và phải đảm bảo chiến tranh không xảy ra. Chỉ cần có chiến tranh nổ ra thì dù kết quả thế nào đi chăng nữa, người dân Việt Nam cũng sẽ luôn phải chịu vô cùng nhiều đau thương và mất mát. Một đất nước xảy ra chiến tranh triền miên sẽ không thể nào phát triển kinh tế và đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân được. Chính vì vậy mục tiêu số một luôn phải là đảm bảo an ninh quốc gia.
Thứ hai, là duy trì thể chế chính trị hiện nay và đảm bảo ổn định chính trị trong nước. Từ góc nhìn của những nhà lãnh đạo ở Hà Nội, việc duy trì thể chế chính trị hiện nay có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định chính trị trong nước bởi nếu có bất kì sự thay đổi đột ngột nào, bạo loạn gần như chắc chắn sẽ xảy ra. Tuy nội chiến không nhất thiết sẽ nổ ra nhưng nó sẽ là một nguy cơ chúng ta không thể loại trừ.
Lịch sử ngàn năm của Việt Nam cho thấy khi đất nước bị chia rẽ, các cường quốc ở bên ngoài sẽ luôn chớp lấy thời cơ thao túng nước ta để trục lợi. Nhìn vào lịch sử của người láng giềng TQ chúng ta cũng thấy điều tương tự. Khi chính quyền trung ương suy yếu, các thế lực trong nước nổi dậy xưng hùng tranh bá gây ra chiến tranh triền miên. Khi triều đình nhà Thanh suy yếu vào cuối thế kỷ XIX, các đế quốc phương Tây lặp tức nhảy vào xâu xé, chia chác lợi ích. Do đó, có thể nói rằng việc duy trì ổn định chính trị quốc nội và chính quyền vững mạnh là yếu tố mang tính then chốt để đảm bảo an ninh quốc gia.
Thứ ba, là đảm bảo môi trường hòa bình trong khu vực, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Khu vực càng ít biến động, các cường quốc càng hạn chế tranh giành quyền lực thì Việt Nam càng có thể tập trung nguồn lực phát triển kinh tếvà đầu tư cho giáo dục, an sinh xã hội. Khi nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định chính trị sẽ đi theo.
Rất nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học chính trị so sánh (comparative politics) đã cho thấy rằng sự thay đổi chế độ sẽ ít xảy ra hơn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển ổn định. Khi người dân cảm thấy nhu cầu vật chất và tinh thần của mình được đáp ứng, họ sẽ sẵn lòng ủng hộ chính quyền hơn. Vì vậy nhiều học giả từ lâu đã nhận định rằng ở TQ, tính chính danh của nhà cầm quyền kể từ khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền cho đến nay chủ yếu dựa vào hai trụ cột chính là chủ nghĩa dân tộc và phát triển kinh tế. Nếu những nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh muốn giành được sự ủng hộ của nhân dân, họ sẽ phải chứng minh được rằng: (i) chính phủ TQ hiện nay có thể bảo vệ an ninh – chủ quyền quốc gia, không để các thế lực ngoại bang xâm phạm lợi ích quốc gia của TQ và (ii) đảm bảo rằng kinh tế TQ tiếp tục phát triển vững mạnh bởi đây là yếu tố tiên quyết để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Những điều này hoàn toàn đúng với trường hợp của Việt Nam.
Mặc dù vậy, cần nói thêm rằng bên cạnh ba lợi ích cốt lõi trên, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng muốn theo đuổi các mục tiêu khác nữa, ví dụ như xây dựng sức mạnh mềm cho Việt Nam, tham gia vào nỗ lực chống biến đổi khí hậu toàn cầu, phối hợp với các nước trong và ngoài khu vực Đông Nam Á xây dựng các cơ chế hợp tác đa phương, nâng cao vị thế của đất nước trong mắt bạn bè quốc tế, v.v… Tuy nhiên rõ ràng ba lợi ích trên là ba lợi ích cốt yếu nhất với Việt Nam bởi chúng là nền tảng để Việt Nam có thể theo đuổi các mục tiêu khác của mình.
III/Đánh giá môi trường chiến lược:
1) Vị trí địa chính trị của Việt Nam:
Xét từ góc độ địa chính trị của Việt Nam, có hai điểm đáng chú ý như sau:
Thứ nhất, Việt Nam có chung đường biên giới trên đất liền với ba nước duy nhất là Campuchia, Lào và TQ. Do đó có thể nói đây là ba nước sát sườn nhất với Việt Nam dưới góc độ an ninh bởi khoảng cách địa lý hết sức gần gũi đồng nghĩa với việc bất kì nước nào trong số ba nước trên sẽ đều có thể là mối hiểm họa lớn nếu họ thực thi chính sách chống Việt Nam. Tuy nhiên,trong ba nước trên chỉ có TQ là cường quốc kinh tế-quân sự và có thamvọng trở thành báquyền.Trong thờikỳ hiệnđại, Lào và Campuchia chưa bao giờ nổi lên như một thế lực quân sự đáng gờm và nhìn chung có mức độ phát triển kinh tế – xã hội thấp hơn Việt Nam.
Mặc dù vậy, trong những thập kỷ gần đây, chỉ có Lào là có quan hệ tương đối hữu hảo với Việt Nam và khó có khả năng trở thành mối đe dọa an ninh trực tiếp cho Việt Nam trong ngắn hạn, dù lợi ích giữa hai nước không phải lúc nào cũng song trùng. Campuchia tuy từng là một trong những đối tác quan trọng trong cuộc khángchiến chống Mỹ nhưng dưới thời Pol Pot trởthành lựclượng tay sai của TQ.Từ sau chiến tranh biên giới Tây Nam đến giờ, có thể nói rằng mối quan hệ VN – Campuchia đã chuyển sang mối quan hệ bạn-thù, tương đối giống với mối quan hệ trong những năm gần đây Việt-Trung bởi cả hai có sự lệ thuộc lẫn nhau tươngđối lớn nhưng vẫn luôn nghi kỵ lẫn nhau. VN buộc phải dè chừng trước Campuchia khi một bộ phận đáng kể trong giới lãnh đạo Campuchia lâu nay có thái độ thù hằn,chống VN.
Hơn nữa, chính sách ngoại giao của Campuchia trong những năm gần đây, cho thấy rằng nước này ngày càng chịu sự chi phối lớn hơn từ chính quyền BắcKinh.Điều này trở nên đặc biệt rõ rệt trong năm Campuchia nắm vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN khi nước này đã ngăn chặn khối ASEAN ra tuyên bố chung về vấn đề Biển Đông tại Hội nghị bộ trưởng ngoại giao vào năm 2012 và mới đây nhất, Campuchia lại một lần nữa ngăn ASEAN đạt đồng thuận về vấn đề Biển Đông trong các phiên họp của khối diễn ra tại Lào vào năm 2016. Trong bối cảnh TQ ngày càng rót nhiều tiền cho các dự án phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng ở Campuchia, có thể thấy rõ rằng nước này đang giới lãnh đạo ở Phnom Penh ngày càng chịu sự ảnh hưởng lớn hơn từ phía Bắc Kinh, một điều vô cùng nguy hiểm đối với VN. Nếu như TQ đổi chiến lược ngoại giao của mình trong tương lai và thiết lập liên minh quân sự với Campuchia thì VN sẽ phải đặc biệt cảnh giác.
Mặc dù vậy, trong ba nước láng giềng này thì rõ ràng TQ là vẫn là nước đặt cho VN nhiều thách thức nhất từ trước đến giờ. TQ là nước láng giềng duy nhất từng tấn công xâm lược và đô hộ VN nhiều lần trong lịch sử ngàn năm của nước ta. TQ là mối đe dọa lớn đối với VN xuất phát từ hai nguyên nhân chính là sự gần gũi về mặt địa lý và sự bất đối xứng về sức mạnh giữa hai nước. Hơn nữa, sự trỗi dậy mạnh mẽ của TQ trong thế kỷ XXI, tham vọng bá quyền của nước này ở Châu Á nói chung và ở Biển Đông nói riêng, bên cạnh sự lệ thuộc kinh tế một chiều của VN vào TQ đồng nghĩa với việc TQ sẽ luôn là một đối tác quan trọng nhưng cũng là một mối đe dọa an ninh tiềm tàng đối với chúng ta.
Thứ hai, tuy Việt Nam là một nước nhỏ ở Đông Nam Á nhưng phần lãnh thổ lại trải dài, gần như bao quanh một cạnh của Biển Đông. Nhìn vào bản đồ có thể thấy rằng Việt Nam là nước duy nhất ở Đông Nam Á có lãnh thổ vừa nằm trên lục địa Á Châu lại vừa giáp với Biển Đông. Việt Nam hiện cũng là nước kiểm soát số lượng đảo lớn nhất ở khu vực Quần đảo Trường Sa.
Hơn nữa, quân cảng Cam Ranh ở Nha Trang là một trong những cảng nước sâu lý tưởng bậc nhất thế giới, rất được ưa chuộng bởi “hải quân các nước bởi điều kiện thủy văn, địa chất rất thuận lợi, thủy triều trong vịnh khá đều đặn, tương đối đúng giờ. Đáy vịnh bằng phẳng, chủ yếu là cát phù sa khá chắc. Ngoài cửa vịnh có các đảo và cù lao chắn gió nên vịnh lặng sóng, thuận tiện cho thuyền neo đậu, tàu có trọng tải 100.000 tấn ra vào dễ dàng”. Nói cách khác, cảng Cam Ranh là một căn cứ hải quân với vị trí phòng thủ cực kỳ vững chắc, đồng thời là bệ phóng lý tưởng để cho các lực lượng hải quân kiểm soát Biển Đông. Là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên với dân số trẻ trung và lớn thứ ba ở Đông Nam Á, đồng thời sở hữu một trong những quân đội thiện chiến bậc nhất ở Châu Á, Việt Nam rõ ràng là một thế lực tiềm tàng trong khu vực. Không phải tự nhiên mà trong lịch sử, nước ta thường được xem như “lực lượng trấn giữ con đường nam tiến cả trên bộ lẫn trên biển của TQ”.
Nhưng rõ ràng vị trí của VN đối với Biển Đông sẽ không có gì đáng nói nếu như Biển Đông không phải là một vùng biển quan trọng. Mặc dù vậy, trên thực tế Biển Đông là một vùng biển có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng đối với nhiều quốc gia trong khu vực. Về mặt kinh tế, Biển Đông có giá trị đáng kể bởi đây là một vùng biển tương đối giàu tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ và khí ga tự nhiên. Theo ước tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) thì có tới 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỉ mét khối ga tự nhiên đang chờ được khai thác ở Biển Đông. Trong khi đó phía TQ ước tính có tới 900 tỉ mét khối khí ga tự nhiên và 130 tỷ thùng dầu ở Biển Đông. Nếu như ước tính của TQ đúng thì trữ lượng dầu thô ở Biển Đông lớn tương đương với toàn bộ trự lượng dầu mỏ của Iraq – nước có trữ lượng dầu mỏ lớn thứ năm trên thế giới theo EIA. Hơn nữa, với dân số khổng lồ của mình và tốc độ phát triển như hiện nay, nhu cầu về năng lượng của TQ là rất lớn. Và dù trữ lượng dầu khí trên thực tế thế nào đi nữa thì Biển Đông cũng là vùng biển đánh cá truyền thống của nhiều ngư dân trong khu vực. Thế nên không có gì ngạc nhiên khi nhiều quốc gia cạnh tranh lợi ích kinh tế ở vùng biển này.
Về địa chiến lược, Biển Đông nắm giữ một vị trí hết sức trọng yếu. Theo một số đánh giá thì Biển Đông được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới bởi có đến hơn 1/2 lượng vận tải thương mại cùng với 1/3 lượng dầu thô của thế giới đi qua Biển Đông. Chính vì vậy, trong tương lai xa, khi TQ đã có một hạm đội “hải dương xanh” và kiểm soát được toàn bộ Biển Đông, nước này sẽ có đủ khả năng để đe doạ ít nhiều sự an toàn của các tàu thuyền đi qua các eo biển chiến lược như Malacca, Lombok hay Sunda. Khi đó, rất có thể các tàu thuyền sẽ phải đi đường vòng và chi phí vận chuyển sẽ tăng gấp bội. Điều sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động kinh doanh nói riêng, đến tăng trưởng và ổn định của kinh tế của khu vực Đông Á nói riêng và thế giới nói chung. Nếu kiểm soát được Biển Đông, TQ sẽ có khả năng uy hiếp các đồng minh của Mỹ ở Châu Á, kể cả khi hải quân TQ không thể đóng các eo biển này. Ở góc độ quân sự, việc Trung Quốc kiểm soát được Biển Đông sẽ giúp nước này nâng cao hiệu quả của chiến lược chống tiếp cận A2/AD (anti-access/area-denial), giúp đẩy lùi hải quân Mỹ ra khỏi chuỗi đảo thứ nhất. Điều này sẽ làm suy yếu khả năng răn đe và ngăn chặn xung đột của quân đội Mỹ ở Châu Á và gia tăng nguy cơ TQ dùng vũ lực để gây sức ép với các nước láng giềng trong khu vực.
Vì Biển Đông có giá trị rất lớn về nhiều mặt nên Việt Nam gần như chắc chắn sẽ bị cuốn vào các “cuộc chơi lớn” của các cường quốc ở khu vực này. Do đó vị trí địa chính trị chiến lược của nước ta là một ưu điểm rất lớn nhưng nếu chính sách ngoại giao không khéo léo có thể sẽ biến Việt Nam thành trận địa nơi các cường quốc tranh giành ảnh hưởng.
2) Cục diện thế giới hậu Chiến tranh Lạnh:
Sự phân bổ quyền lực (distribution of power) tuy không phải là yếu tố duy nhất quyết định chính sách đối ngoại của các quốc gia nhưng nó sẽ quyết định xem một quốc gia có thể làm gì và không thể làm gì. Một quốc gia càng mạnh thì càng có nhiều lựa chọn, một quốc gia càng yếu thì càng có ít sự lựa chọn. Câu nói nổi tiếng trong “cuộc đối thoại ở Melos” của sử gia người Hy Lạp Thucydides cho đến giờ vẫn không hề sai: “kẻ mạnh làm bất cứ những gì mình có thể, còn kẻ yếu thì phải chấp nhận những gì họ phải chấp nhận”.
Trên thực tế vì đa số các quốc gia dù ở đâu và dưới chế độ chính trị nào đều có lợi ích trong việc đảm bảo tối đa an ninh và sức ảnh hưởng của mình trên trường quốc tếnên chỉ cần dựa sự phân bổ quyền lực cũng có thể dự đoán được một số đường lối chính trong chiến lược đối ngoại của các quốc gia. Vì vậy trong chính trị quốc tế,yếu tố quan trọng nhất có lẽ vẫn là sự phân bổ quyền lực giữa các quốc gia, nhưng đặc biệt là giữa các cường quốc bởi họ là những nhân tố có ảnh hưởng nhất tới cục diện thế giới.
Sau sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh vào năm 1989 và sự tan rã của Liên Xô hai năm sau đó, Mỹ bước vào kỷ nguyên đơn cực (unipolar era) mà trong đó Mỹ là siêu cường (superpower) duy nhất với sức mạnh kinh tế – quân sự – khoa học kỹ thuật vượt xa tất cả những nước còn lại. Tuy nhiên, khoảnh khắc đơn cực của Mỹ đã không kéo dài được bao lâu bởi chính quyền Bush đã phung phí sức mạnh quân sự và hàng nghìn tỉ đôla cho hai cuộc chiến tranh trường kỳ ở Afghanistan và Iraq.
Trong khi Mỹ sa lầy ở Trung Đông, TQ lại trỗi dậy mạnh mẽ về mọi mặt. Kể từ khi Đặng Tiểu Bình thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh tế TQ đã duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 10% trong nhiều năm. Vì giữ được đà phát triển này nên chỉ sau ba thập kỷ, TQ đã soán mất ngôi vị nền kinh tế lớn thứ hai thế giới của Nhật Bản.Thậm chí, nhiều nhà kinh tế từ lâu đã dự đoán rằng nền kinh tế TQ sẽ vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới trước năm 2050.
Các nhà lãnh đạo TQ không chỉ sử dụng nguồn lực kinh tế để đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng đời sống của người dân nước mình mà còn đầu tư rất nhiều vào công cuộc hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân. Ngân sách chi tiêu quốc phòng TQ nay lớn thứ nhì trên thế giới, chỉ sau ngân sách quốc phòng Mỹ. Đáng lo ở chỗ một phần rất lớn trong số tiền này được đầu tư vào việc nâng cấp và hiện đại hóa hải quân, giúp hải quân TQ trở thành lực lượng hải quân lớn thứ hai ở Châu Á, chỉ sau Mỹ. Mục tiêu xa hơn của những chiến lược gia quân sự TQ là xây dựng một hạm đội “hải dương xanh” (blue ocean navy) giúp TQ trở thành một thế lực hải quân đủ mạnh để có thể thách thức sự thống trị của hải quân Mỹ trên biển cả. Chính vì vậy, TQ đã đầu tư rất nhiều vào các tàu ngầm thế hệ mới và cả tàu sân bay để tăng cường khả năng viễn chinh (power projection) của mình. Bên cạnh đó, TQ cũng tiếp tục phát triển các hệ thống tên lửa chống hạm như hệ thống tên lửa DF-21D với mục đích răn đe, hạn chế tầm hoạt động của hải quân Mỹ. Những bước đi này sẽ làm suy yếu ít nhiều các cam kết an ninh của Mỹ đối với các đồng minh ở Châu Á và làm gia tăng mối quan ngại về an ninh của các nước láng giềng của TQ, đặc biệt là những nước đang có tranh chấp với TQ như Nhật Bản, Việt Nam, v.v…
Nhận thấy mối đe doạ này, chính quyền Obama đã triển khai chính sách xoay trục về Châu Á (pivot to Asia) để tái phân bổ nguồn lực của Mỹ về khu vực này và củng cố các mối quan hệ ngoại giao – quốc phòng của Mỹ với các đối tác quan trọng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Tuy sức mạnh của Mỹ đã suy yếu ít nhiều so với giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh nhưng cho đến giờ Mỹ vẫn là siêu cường số một thế giới. Quân đội Mỹ vẫn là quân đội thiện chiến nhất và được trang bị vũ khí tối tân nhất. Hơn nữa, có lẽ trong thời điểm hiện nay chỉ có quân đội Mỹ mới có đủ sức mạnh để tham chiến vào hai cuộc chiến tranh lớn ở hai mặt trận hoàn toàn độc lập và giành được chiến thắng. Với vị trí địa chính trị “trời phú” của mình cùng với kho vũ khí hạt nhân lớn nhất nhì thế giới, nước Mỹ là một pháo đài bất khả xâm phạm đối với bất kì đội quân xâm lược nào. Hơn nữa, hải quân Mỹ vẫn đang ngày đêm tuần tra và kiểm soát tất cả các vùng biển trọng yếu nhất trên thế giới. Mỹ là nước duy nhất có mạng lưới đồng minh và căn cứ quân sự trên toàn cầu. Những yếu tố này giúp quân đội Mỹ có được sức mạnh viễn chinh vô song và vì vậy có khả năng can thiệp vào bất kì cuộc xung đột vũ trang nào ở bất kì nơi đâu trong dưới 24 giờ đồng hồ.
Thế giới ngày nay không còn là thế giới đơn cực, không còn là một sân chơi của riêng Mỹ nữa nhưng chắc chắn nó chưa phải là thế giới đa cực. Ở Châu Âu, Nga đang tìm lại vị thế cường quốc mà mình đã đánh mất sau những năm 90 với những nỗ lực can thiệp vào cuộc khủng hoảng ở Ucraina và Xi-ri. Điều này đang biến Nga trở thành một trong những thách thức an ninh lớn nhất đối với nhiều đồng minh Châu Âu của Mỹ, đặc biệt là các nước vùng Ban-tic và Đông Âu. Tuy nhiên cần nhìn nhận một cách thực tế rằng nước Nga của ngài Putin không phải là Liên Xô của Stalin. Liên Xô từng là một thế lực quân sự ngang ngửa với Mỹ với một hệ tư tưởng có sức hút toàn cầu và có tham vọng bá quyền thật sự. Nước Nga ngày nay chỉ là một cường quốc khu vực thuần túy và chỉ còn là cái bóng của đế chế Xô-viết.
Kể từ khi thành lập đến nay, Liên minh Châu Âu (EU) chưa bao giờ là một thế lực độc lập trên chính trường quốc tế. Đa số các quốc gia thành viên của khối EU là đồng minh NATO của Mỹ và các quốc gia thành viên của khối chưa bao giờ xây dựng thành công một chính sách đối ngoại đơn nhất cho tất cả. Hơn nữa, với cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm gần đây và sự rạn nứt trong khối với quyết định rời EU của nước Anh, EU gần như chắc chắn sẽ không có tương lai như một thế lực có thể chi phối chính trị quốc tế, càng không thể là một đối trọng thực thụ trước sự trỗi dậy của TQ.
Đức và Nhật Bản tuy là hai cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới nhưng không phải là cường quốc chính trị – quân sự. Đây là hai quốc gia bại trận trong Thế Chiến II và là hai quốc gia duy nhất trên thế giới có Hiến pháp cấm việc sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp. Nhất cử nhất động của hai quốc gia này, dù chỉ với mục đích hoàn để tự vệ đi chăng nữa, đều luôn bị theo dõi sát sao bởi cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước láng giềng bởi hơn ai hết, họ là nạn nhân của hai cuộc Thế Chiến và không ai muốn lịch sử lặp lại, dù chỉ một lần nữa. Bản thân người dân Nhật hay người dân Đức cũng ý thức được điều này nên phong trào hòa bình phát triển rất mạnh ở cả hai nước. Vì những lý do này nên dù cả hai quốc gia này hoàn toàn có đủ năng lực khoa học kỹ thuật để phát triển vũ khí hạt nhân để tự đảm bảo an ninh của mình nhưng các nhà lãnh đạo Đức và Nhật đều không theo đuổi lựa chọn này bởi họ biết rằng sẽ vấn phải sự phản đối hết sức quyết liệt của người dân. Cả hai quốc gia này sẽ tiếp tục là những thế lực kinh tế – chính trị đáng gờm nhưng ngày nào họ còn bị ám ảnh bởi quá khứ của mình, cả hai sẽ không thể trở thành những siêu cường sánh vai được với Mỹ hay TQ. Đây sẽ không phải là hai nước có thể trở thành đối trọng độc lập với TQ trong thời gian trước mắt.
Còn Ấn Độ thì sao? Ấn Độ là nền dân chủ lớn nhất thế giới với số dân đông thứ hai, chỉ kém TQ. Ấn Độ cũng là một cường quốc hạt nhân như Mỹ, Nga và TQ và là một trong những nước có tham vọng trở thành cường quốc hải quân. Hơn nữa, do Ấn Độ có tranh chấp trên đất liền với TQ nên nước này cũng là một trong những đối tác an ninh quan trọng của VN trong những năm gần đây.Tuy nhiên điểm yếu của Ấn Độ đấy là sự chia rẽ trong nội bộ bởi sự đa văn hóa,đa sắc tộc và đa ngôn ngữ trong cộng đồng người Ấn. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà lãnh đạo Ấn Độ sẽ luôn phải dành rất nhiều thời gian và công sức để giải quyết các vấn đề đối nội trước khi có thể tập trung toàn ý cho các vấn đề đối ngoại. Hơn nữa, Ấn Độ có một đối thủ truyền kiếp là người láng giềng Pakistan, vốn là một đối tác an ninh được TQ duy trì để làm đối trọng với Ấn Độ. Vì vậy, ngày nào Ấn Độ còn phải đương đầu với mối đe dọa hạt nhân trực tiếp từ Pakistan, ngày đó Ấn Độ vẫn còn chưa thể tập trung nguồn lực để kiềm chế TQ.
Do đó, trong bối cảnh hiện nay, nếu như có bất kì quốc gia nào có đủ khả năng ngăn chặn được tham vọng bá quyền của TQ ở Châu Á thì chỉ có thể là Mỹ.
3) Đánh giá tình hình an ninh khu vực trong những năm gần đây:
Đối với VN, khu vực quan trọng nhất về mặt an ninh tại thời điểm hiện nay là khu vực Đông Á nói chung và khu vực Biển Đông nói riêng. Nhìn vào khu vực này, có thể thấy một vài mối đe dọa an ninh tiềm tàng như sau:
Mối đe dọa tiềm tàng thứ nhất, là xung đột vũ trang ở Biển Đông. Như đã phân tích ở trên, vì Biển Đông có tầm quan trọng đặc biệt đối với an ninh của VN nên chắc chắn chúng ta sẽ không muốn để TQ thâu tóm vùng biển này. Tuy nhiên vì sức mạnh quân sự của TQ vượt trội hơn nhiều so với VN nên nếu có xung đột vũ trang xảy ra, VN chắc chắn sẽ chịu thua thiệt. VN có lợi ích trong việc ngăn chiến tranh không xảy ra vì trên bàn đàm phán đa phương chúng ta sẽ có khả năng bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ cao nhất. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, một trong những lợi ích cốt lõi của nước ta là đảm bảo môi trường an ninh hoà bình, tạo điều kiện để phát triển kinh tế. Do đó xung đột vũ trang ở Biển Đông sẽ là một nguy cơ lớn mà chúng ta muốn tránh.Xung đột vũ trang ở BiểnĐông có thể xảy ra trong những hoàn cảnh nào? Nói cách khác, những nguyên nhân nào có thể châm ngòi cho một cuộc chiến tranh ở Biển Đông?
Nguyên nhân số một là tính toán sai lầm của các nhà lãnh đạo. Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền đang diễn ra hết sức gay gắt do TQ đang ngày đêm bồi đắp đảo nhân tạo trái phép ở một số đảo trên Biển Đông và quân sự hóa tranh chấp thì việc có xô xát giữa lực lượng vũ trang hay cảnh sát biển dẫn đến khủng hoảng ngoại giao và leo thang xung đột là điều không thể tránh khỏi. Khi mà sự nghi kỵ giữa các quốc gia đủ lớn thì những hành động dù chỉ hoàn toàn với mục đích tự vệ cũng sẽ gây căng thẳng và có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng nói trên. Thế nên kể cả trong trường hợp không có bất kì bên nào muốn dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp, chiến tranh vẫn có thể nổ ra nếu các lãnh đạo các nước đọc sai ý đồ của nhau và đưa ra các quyết sách sai lầm.
Nguyên nhân thứ hai là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Một khi các nhà lãnh đạo Bắc Kinh cảm thấy đủ tự tin vào sức mạnh quân sự của mình, rất có thể họ sẽ dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp, đặc biệt khi quá trình đàm phán ngoại giao gặp bế tắc. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin vào điều này bởi sự xác quyết trong những năm gần đây của TQ chỉ bắt đầu sau giaiđoạn khủnghoảng kinh tế 2008-09,khi người TQ cho rằng kỷ nguyên Mỹ đã kết thúc và họ đã đủ mạnh để thách thức Mỹ ở Châu Á. Hơn nữa, rất có thể một lúc nào đó các nhà lãnh đạo TQ sẽ kết luận rằng sức mạnh hải quân của họ đã lên tới đỉnh điểm và rằng nếu họ không dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp ngay lúc này, họ sẽ mất đi lợi thế quân sự của mình trong khuvực.Điều này có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh ở BiểnĐông mà VN không mong muốn.
Nguyên nhân cuối cùng là sự suy yếu trong nội bộ của Trung Quốc. Tuy TQ đang nổi lên như một siêu cường thứ hai nhưng trên thực tế nội bộ TQ đang gặp rất nhiều vấn đề hóc búa. Thứ nhất, nền kinh tế của TQ rất lớn nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của TQ đang chậm lại đáng kể. Đã qua rồi cái thời tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số. Thứ hai, vì phát triển kinh tế “phi mã” nên hệ quả là môi trường bị tàn phá nghiêmtrọng. Mỗi năm TQ đang chứngkiến hàng chục nghìn cuộc biểutình ở nhiều cấp độ khác nhau ở khắp các tỉnh thành chủ yếu về các vấn đề an sinh xã hội. Thứ ba là nguy cơ các vùng tự trị như Tân Cương và TâyTạng ly khai khỏi TQ. Dù bị đàn áp ác liệt và đối mặt với chính sách đồng hoá của người Hán song phongtrào đòi lykhai ở những vùng tựtrị như TânCương hay TâyTạng vẫn rất mạnhmẽ. Mất hai nơi này thì TQ sẽ đạiloạn và sẽ suyyếu nghiêmtrọng bởi đây là những vùng đất vôcùng giàu tài nguyên khoáng sản mà TQ thì rất phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên này. Hơn nữa, nếu các khu vực này trở thành những quốc gia độc lập và một ngày gia nhập liên minh với các quốc gia thù địch với TQ thì an ninh TQ sẽ bị đe doạ nghiêm trọng.
Để tránh những nguy cơ này dẫn đến một cuộc khủng hoảng lớn trong xã hội TQ, rất có thể các nhà cầm quyền Bắc Kinh sẽ muốn hướng sự chú ý của dư luận trong nước ra bên ngoài bằng việc phát động một cuộc chiến tranh đánh lạc hướng (diversionary war) ở Biển Đông. Đó cũng là một con đường mà chiến tranh có thể xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta.
Mối đe dọa tiềm tàng thứ hai, là Mỹ quyết định rút lui khỏi Châu Á, chuyển sang đại chiến lược biệt lập (isolationist grand strategy).Dưới thời Trump, đây là một nguy cơ không thể loại trừ, mặc dù khả năng xảy ra trên thực tế rất thấp vì bộ máy chính quyền Mỹ nói chung và cộng đồng chính sách đối ngoại nói riêng lâu nay vẫn ủng hộ một vai trò dẫn dắt của Mỹ ở quy mô toàn cầu. Tuy nhiên, việc Mỹ trong những những năm tới hoặc thậm chí trong thập kỷ tới đây sẽ chuyển sang đại chiến lược “cân bằng khơi xa” là một viễn cảnh hoàn toàn rất thực tế trong bối cảnh nợ công của chính phủ Mỹ ngày càng gia tăng chóng mặt và người dân Mỹ ngày càng muốn chính phủ Mỹ đặt lợi ích của nhân dân Mỹ lên trên hết.
Khác với đại chiến lược biệt lập, cân bằng khơi xa sẽ không yêu cầu Mỹ rút lui về pháo đài của mình và bỏ trống vị trí lãnh đạo thế giới mà Mỹ nắm giữ bấy lâu nay nhưng nó sẽ yêu cầu Mỹ tinh giản sự hiện diện quân sự của mình ở nhiều nơi. Dù không rũ bỏ hoàn toàn các cam kết đối với an ninh của các đồng minh ở Châu Á và không rút toànbộ quânlính về nước thì bảnthân việc Mỹ gửi đi tínhiệu rằng Washington không còn mặn mà với các đồng minh và rằng họ không còn sẵn lòng hy sinh của cải và mạng sống của công dân Mỹ để bảo vệ các quốc gia khác rất có thể sẽ khiến TQ cảm thấy tự tin hơn và sẵn sàng theo đuổi chính sách ngoại giao cứng rắn hơn ở Biển Đông.
Chắc chắn đây là điều bất lợi cho VN bởi một khi TQ tin rằng kể cả họ sử dụng vũ lực để bắt nạt các nước yếu hơn đi nữa cũng sẽ không ai sẵn lòng trừng phạt họ thì những nhà lãnh đạo TQ sẽ càng có cớ để “ỷ lớn hiếp bé”.Nên nhớ rằng những nhà lãnh đạo TQ là những người hết sức thông minh và họ thường tính toán rất kĩ lưỡng trước khi đưa ra các quyết sách lớn. Chính vì vậy trước khi tiến hành tấn công xâm lược nước ta vào năm 1979, Đặng Tiểu Bình trước đó đã có một chuyến công du tới một loạt các nước như Nhật Bản, Malaysia rồi Mỹ để thăm dò cũng như tranh thủ sự ủng hộ về mặt ngoại giao của cộng đồng quốc tế. Ngày đó nếu Tổng thống Jimmy Carter quyết liệt phản đối và cam kết sẽ trừng phạt Trung Quốc nếu nước này tấn công xâm lược ViN thì nhiều khả năng ông Đặng sẽ phải tính toán lại nước đi của mình. Đáng tiếc rằng Mỹ lúc đó đang trong quá trình bình thường hóa quan hệ với TQ nên về cơ bản đã lờ đi hành vi xâm lược của TQ. Vì vậy một khi cam kết của Mỹ đối với khu vực suy yếu, rất có thể TQ sẽ thừa thời cơ lấn tới và gia tăng sức ép lên VN, buộc chúng ta phải nhượng bộ ở Biển Đông.
Mối đe dọa tiềm tàng cuối cùng, là một thỏa thuận hòa hoãn Mỹ – Trung.Vì sao điều này lại có hại cho Việt Nam? Lý do tương tự như một sự thoái lui của Mỹ và thậm chí còn nguy hại hơn vì trong hoàn cảnh này, hai nước đã có thỏa thuận chia chác lợi ích bất chấp an ninh của VN.Nếu như chỉ cần Mỹ lờ đi những hành động hiếu chiến của TQ mà Bắc Kinh đã cảm thấy an tâm để tấn công VN rồi thì chúng ta càng có lý do để tin rằng các nhà lãnh đạo TQ sẽ càng sẵn sàng o ép Việt Nam nếu Mỹ–Trung hoà hoãn với nhau và Mỹ “bật đèn xanh” cho TQ tự thiết lập một bán cầu ảnh hưởng (sphere of influence) của mình ở Châu Á.
Tuy nhiên đây là một mối hiểm hoạ tương đối xa vời trong thời điểm hiện nay vì Mỹ – Trung hiện đang đối đầu trực tiếp ở Châu Á. Khi hai bên đang đối đầu trực tiếp với nhau và có xung đột rõ ràng về lợi ích chiến lược trong khu vực thì việc có thể thoả hiệp được với nhau là một nhiệm vụ gần như bất khả thi. Dưới thời Nixon – Kissinger, Mỹ đã theo đuổi chính sách hoà hoãn tương đối thành công với cả Liên Xô và TQ. Nhưng điều này không có nghĩa là hiện nay Mỹ sẽ hoặc có khả năng thực thi chính sách hoà hoãn thành công với TQ. Sở dĩ ngày đó hoà hoãn Mỹ-Trung và hoà hoãn Mỹ-Xô thành công là bởi Mỹ lúc đó có nhiều lợi ích song trùng với cả hai: với Liên Xô, cả hai đều có lợi ích trong việc kiểm soát vũ khí hạt nhân; với TQ, cả hai đều có lợi ích trong việc kiềm chế Liên Xô và Mỹ rút quân khỏi VN. Quan trọng hơn hết, đó là thời điểm cao trào của mâu thuẫn Trung – Xô trong khi Mỹ – Trung lại không có xung đột trong lợi ích chiến lược. Đó là lý do vì sao Mỹ có thể hoà hoãn với TQ tại thời điểm đó nhưng không thể thực thi chính sách này trong thời điểm hiện nay bởi những điều kiện vô cùng thuận lợi lúc đó đang không hiện diện vào lúc này.
Hơn nữa, trong bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay, đặc biệt dưới chính quyền Trump, dù Mỹ và Nga đang có một số lợi ích chiến lược song trùng nhưng quyết định từ chức của cựu cố vấn an ninh quốc gia Michael Flynn sau scandal với Nga mới đây cho thấy vẫn còn lực cản rất lớn đối với một sự hoà hoãn Mỹ – Nga ở Washington. Nếu như hoà hoãn Mỹ – Nga đã khó như vậy rồi thì một thoả thuận hoà hoãn Mỹ – Trung ở Châu Á càng là một triển vọng viển vông khi hai nước này đang đối đầu trực tiếp ở đây. Do đó, tuy đây là một mối đe doạ có thật đối với VN, nhất là vì Mỹ đã từng hoà hoãn với TQ trong những năm 70,nhưng tại thời điểm này,đây chưa phải là mối đe doạ lớn nhất và trực tiếp nhất đối với an ninh của VN.
IV/Đánh giá các lựa chọn đại chiến lược của Việt Nam:
Câu hỏi lớn nhất mà các nhà lãnh đạo của VN buộc phải trả lời trong quá trình hoạch định chiến lược cho nước nhà đó là: cách tốt nhất để đảm bảo an ninh cho VN là liên kết với một siêu cường hay theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập – tự chủ?
Nếu câu trả lời là VN nên tìm kiếm một siêu cường để bảo đảm an ninh cho mình thì hai lựa chọn đại chiến lược khả dĩ sẽ là đại chiến lược thân Mỹ và đại chiến lược thân TQ.
Nếu câu trả lời là VN nên theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập thì hai lựa chọn đại chiến lược khả dĩ sẽ là đại chiến lược đa phương và đại chiến lược biệt lập.
Các lựa chọn đại chiến lược cho Việt Nam trong thế kỷ XXI
1) Đại chiến lược thân Mỹ (pro-U.S. grand strategy):
Đại chiến lược thân Mỹ sẽ phù hợp khi TQ đặt ra mối đe doạ trực tiếp đối với an ninh của VN. Điều này sẽ xảy ra khi là chính phủ kết luận rằng mọi biện pháp ngoại giao đã thất bại và TQ đã hạ quyết tâm sử dụng sức mạnh quân sự để giải quyết tranh chấp tại Biển Đông và thậm chí có ý đồ đưa quân sang tấn công xâm lược lãnh thổ của VN trên đất liền.Nếu TQ và Campuchia ký kết hiệp ước liên minh quân sự thì rất có thể phía VN cũng phải tự tìm kiếm một liên minh của riêng mình với Mỹ.
Nếu VN theo đuổi đại chiến lược thân Mỹ thì việc hợp tác an ninh quốc phòng một cách sâu sắc và thực chất với Mỹ (kể cả nếu không trở thành đồng minh hiệp ước của Mỹ) là một điều bắt buộc. Phía Hà Nội cần cho phép Washington đồn trú quân Mỹ ở VN và quyền sử dụng các căn cứ quân sự như Cam Ranh để khống chế TQ ở BiểnĐông.Chính sách đối ngoại của VN về cơ bản sẽ không được mâu thuẫn với chính sách đối ngoại của Mỹ, đặc biệt là ở Châu Á và trong những vấn đề trực tiếp liên quan đến TQ. Rất có thể đại chiếnlược này sẽ yêu cầu VN giatăng chi tiêu quốcphòng và thậm chí gửi một số lượng binh lính nhất định đi tham chiến ở nước ngoài nếu Mỹ yêu cầu. Bên cạnh đó, VN sẽ phải tích cực giảm sự lệ thuộc kinh tế của VN vào TQ và thậm chí sẽ phải thay đổi ít nhiều về mặt chính trị trong nước để phù hợp với yêu cầu của phía Mỹ.
Điểm mạnh của đại chiến lược thân Mỹ là nó sẽ giải quyết được bài toán an ninh cho VN ngày nào chúng ta còn là đồng minh của Mỹ. Cho đến nay, chưa có một đồng minh thân cận nào mà Mỹ cam kết bảo vệ lại bị một bên thứ ba tấn công dù ở Châu Âu, Châu Á hay Châu Mỹ. Tuy nhiên điểm yếu rất lớn đấy là chúng ta sẽ phải đánh đổi sự tự do trong việc hoạch định đường lối và thực thi chính sách của quốc gia ở một mức độ nhất định. Điều này sẽ có hại khi Mỹ yêu cầu ta làm những gì họ muốn nhưng lợi ích của hai nước lại không song trùng hoặc thậm chí xung đột. Hơn nữa, đến khi thời thế thay đổi, Mỹ sẵn sàng hoà hoãn với TQ thì rất có thể VN sẽ bị đưa ra làm con bài để hai bên mặc cả với nhau và dĩ nhiên điều này sẽ có hại cho phía chúng ta.
Đại chiến lược thân Trung Quốc (pro-China grand strategy):
Từ góc nhìn của các nhà lãnh đạo VN, có lẽ một đại chiến lược thân TQ sẽ phù hợp trong bối cảnh an ninh chính trị trong nước bị Mỹ đe doạ. Nói cách khác, đại chiến lược này sẽ được các nhà lãnh đạo VN quan tâm nhất khi Mỹ có mong muốn lật đổ chế độ hiện nay ở VN.
Nếu như Mỹ nhất quyết thay đổi chế độ thì Hà Nội sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt tay với Bắc Kinh. Vì TQ không có chính sách liên minh như Mỹ nên VN không nhất thiết phải liên minh với TQ để chống Mỹ nhưng chắc chắn chính sách đối ngoại quốc phòng VN phải đi theo đường lối của TQ, đồng nghĩa với việc không được liên minh với Mỹ hay bất kì nước nào khác. Rất có thể Việt Nam sẽ phải công nhận chính thức (de jure) chủ quyền hợp pháp của TQ ở Biển Đông, ít nhất ở một số khu vực nhất định. Đổi lại, TQ sẽ hoà hoãn với VN ở Biển Đông và cho phép chúng ta tạm thời “mượn” các đảo ở Trường Sa mà chúng ta đang kiểm soát. VN sẽ tiếp tục tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác đa phương như LHQ, ASEAN nhưng để phục vụ lợi ích của TQ. Trên thực tế, VN sẽ phải đóng vai của Campuchia trong ASEAN, ngăn không cho khối này ra các lập trường chung về vấn đề Biển Đông ngày nào TQ còn chưa thay đổi quan điểm của mình về tranh chấp hiện nay.
Điểm mạnh của đại chiến lược thân TQ là nhiều khả năng nó sẽ thuyết phục Mỹ từ bỏ tham vọng lật đổ chế độ ở VN bởi nếu sự can thiệp của TQ có thể thuyết phục được Mỹ không can thiệp quân sự vào Bắc Triều Tiên thì nó cũng sẽ có tác dụng ở VN. Hơn nữa, ở một khía cạnh nhất định có thể nói rằng việc xích lại gần TQ hơn sẽ giúp VN giải toả sức ép ở Biển Đông, ít nhất trong ngắn hạn. Tuy nhiên, cũng như đại chiến lược thân Mỹ, điểm yếu rất lớn đấy là chúng ta sẽ phải đánh đổi sự tự do trong việc hoạch định đường lối và thực thi chính sách của quốc gia.Điều này sẽ có hại khi TQ yêu cầu ta làm những gì họ muốn nhưng lợi ích của hai nước lại không song trùng hoặc thậm chí xung đột. VN sẽ không muốn bị bạn bè quốc tế khác nhìn vào như một thế lực tay sai của TQ như Campuchia.Hơn nữa,đến khi thời thế thay đổi, TQ sẵn sàng hoà hoãn với Mỹ thì nhiều khả năng VN sẽ bị biến thành con bài để hai bên mặc cả với nhau và dĩ nhiên điều này bất lợi cho phía chúng ta.
Mặc dù vậy, cần nhìn nhận một cách thực tế rằng Mỹ kể từ khi bình thường hoá quan hệ với VN đến giờ gần như đã từ bỏ tham vọng thay đổi chế độ ở VN, ít nhất là trong thời gian trước mắt. Điều này có thể thấy rõ qua chuyến thăm Mỹ lịch sử của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào năm 2015. Việc Tổng thống Obama sẵn sàng đón tiếp nồng hậu Tổng bí thư của một đảng cộng sản ở trong Nhà Trắng với đầy đủ nghi lễ cho một nguyên thủ quốc gia cho thấy Mỹ sẵn sàng theo đuổi một mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi với VN trên tinh thần hai bên tôn trọng hệ thống chính trị của nhau.
Đại chiến lược đa phương (omnidirectional grand strategy):
Nếu như VN không phải đối mặt với mối hiểm hoạ an ninh nào trong ngắn hạn thì đại chiến lược đa phương sẽ là một trong những lựa chọn tương đối hợp lý. Để VN theo đuổi con đường đa phương, yếu tố tiên quyết là kiên trì theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập- tự chủ.Trên thực tế,bằng cách này hay cách khác VN sẽ cần duy trì nguyên tắc “3 Không” trong đối ngoại- quốc phòng (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở VN và không dựa vào nước này để chống nước kia).
Tuy việc thực thi nguyên tắc này có thể linh hoạt tuỳ theo từng thời điểm và trường hợp nhưng về cơ bản, để có thể thực hiện đại chiến lược đa phương, VN không được phép tham gia liên minh quân sự với bất kì nước nào, đặc biệt là TQ hoặc Mỹ. Mặc dù một liên minh quân sự đa phương trong khối ASEAN (nếu trở thành hiện thực) sẽ khác với một liên minh Việt–Mỹ nhưng từ góc nhìn của Bắc Kinh, vì rất nhiều nước ASEAN hiện nay có tranh chấp trực tiếp với TQ ở Biển Đông nên một liên minh ASEAN dưới con mắt của người TQ sẽ là một liên minh chống TQ. Do đó, chúng ta sẽ phải tránh tham gia một liên minh quân sự trong khối ASEAN nếu nó trở thành hiện thực trong tương lai, nếu Hà Nội muốn theo đuổi đại chiến lược đa phương.
Yếu tố quan trọng không kém là giữ khoảng cách gần vừa phải giữa Mỹ và TQ. Điều này không nhất thiết yêu cầu VN giữ quan điểm hoàn toàn trung lập trong các vấn đề liên quan tới hai nước này nhưng chúng ta sẽ phải thực hiện chính sách “cân bằng động”, tức thường xuyên điều chỉnh chính sách ngoại giao một cách linh hoạt tuỳ xem cán cân quyền lực nghiêng về nước nào và nước nào đang đe doạ an ninh của VN nhiều hơn. Như vậy VN sẽ cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác an ninh quốc phòng với Mỹ nhưng không liên minh với Mỹ và cho phép Mỹ đặt căn cứ quân sự ở VN. VN sẽ tiếp tục ủng hộ chính sách tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông nhưng hạn chế đưa ra quan điểm thiên vị về phía Mỹ khi hai siêu cường có xung đột ở Biển Đông như khi TQ thu giữ thiết bị lặn của Mỹ ở Biển Đông. Mặt khác, VN cũng không được tiến quá sát vào TQ và cần từng bước giảm bớt sự lệ thuộc về mặt kinh tế – chính trị của mình vào nước này. VN cần tiếp tục kiên trì quan điểm giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hoà bình trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế nhưng không nhượng bộ phía TQ nếu phải mặc cả lợi ích quốc gia cốt lõi. VN cũng không được phép công nhận chủ quyền của TQ đối với toàn bộ Biển Đông để nhận lấy sự thừa nhận quyền kiểm soát trên thực tế (de facto) các đảo hiện nay của VN ở Trường Sa.
Cuối cùng, để bù lại cho việc không có siêu cường nào “chống lưng”, VN sẽ phải tích cực đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ đối tác của mình trên mọi lĩnh vực và tham gia một cách thực chất vào các thiết chế hợp tác quốc tế trong và ngoài khu vực.Trên thực tế đây là những chính sách VN theo đuổi bấy lâu nay. Vì vậy chúng ta không chỉ đẩy mạnh hợp tác an ninh với Mỹ mà còn cần thúc đẩy quan hệ quốc phòng với các cường quốc có năng lực tiềm tàng và có lợi ích trong việc kiểm soát tham vọng của TQ ở Châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ và Nga. Hơn nữa, VN sẽ cần chủ động và tích cực thúc đẩy và tham gia xây dựng các thiết chế đa phương như ASEAN và thậm chí đề xuất các thiết chế đa phương mới nếu cần thiết để nâng cao vị thế cũng như sức ảnh hưởng thực sự của các quốc gia vừa và nhỏ trong khu vực. Điều này không nhất thiết yêu cầu VN phải đóng vai trò lãnh đạo của ASEAN nhưng sẽ yêu cầu chúng ta phải tích cực đóng góp cho cộng đồng này và đẩy mạnh quá trình cải tổ ASEAN, trước tiên bằng việc chuyển cơ chế đồng thuận sang cơ chế bỏ phiếu đa số, ít nhất trong một số vấn đề không ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các nước trong khối.
Điểm mạnh nhất của đại chiến lược đa phương là đảm bảo được gần như toàn vẹn chủ quyền của chúng ta bởi đường lối chính sách của VN sẽ do người VN quyết định. Nếu tận dụng được một cách khéo léo, chúng ta có thể dùng siêu cường để đối trọng với siêu cường kia và nhận được sự hỗ trợ của cả hai như chúng ta từng làm với Liên Xô và TQ trong những năm 60. Hơn nữa, bằng việc duy trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, VN có thể sẽ nâng cao được vị thế của mình trong mắt bạn bè quốc tế và thậm chí trở thành một thế lực đáng kể trong khu vực. Điểm yếu rõ rệt là chiến lược này có thể sẽ không đảm bảo được an ninh cho VN, nhất là với tình hình an ninh khu vực đầy bất ổn hiện nay. Hơn nữa, “cân bằng động” dù là một ý tưởng hay trên giấy tờ nhưng sẽ khó để thực hiện tốt dược trên thực tế và nếu không khéo chính sách của ta sẽ rất dễ bị nghiêng về một bên. Mặt khác, nếu thời thế thay đổi và chúng ta không linh hoạt điều chỉnh kịp thời thì nhiều khả năng sẽ phải đối mặt với hiểm hoạ từ TQ một mình mà không có sự trợ giúp của Mỹ.
Đại chiến lược biệt lập (isolationist grand strategy):
Lựa chọn cuối cùng cho các nhà hoạch định chính sách của VN là theo đuổi đại chiến lược biệt lập. Lôgic chủ đạo đằng sau đại chiến lược biệt lập là VN càng tránh can dự sâu vào các vấn đề quốc tế thì càng dễ tránh được xung đột lợi ích với các nước khác. Về cơ bản, VN sẽ giữ quan điểm hoàn toàn trung lập giữa TQ và Mỹ ở Biển Đông và giữ vững tuyệt đối nguyên tắc “3 Không” trong quốc phòng. VN cũng sẽ chấp nhận đàm phán song phương với TQ về tranh chấp hiện nay. Điều này không có nghĩa là VN sẽ co cụm và rút khỏi toàn bộ các cơ chế đa phương và tổ chức quốc tế nhưng chúng ta sẽ chỉ tham dự ở mức tối thiểu và hoàn toàn để bảo vệ lợi ích của riêng VN chứ không nhằm mục đích thúc đẩy lợi ích chung cho cả các nước khác trong khu vực. Bên cạnh đó, VN cũng sẽ hạn chế tham gia vào các hiệp định đa phương để tối đa hoá sự chủ động và linh hoạt trong hoạch định và thực thi các quyết sách.
Ưu điểm của đại chiến lược biệt lập là ít nhất trên lý thuyết, nó sẽ đảm bảo được chủ quyền của VN bởi khi chúng ta rút lui khỏi đấu trường quốc tế và giữ quan điểm trung lập, đường lối chính sách của VN sẽ chịu ít sự chi phối từ bên ngoài. Đổi lại, để áp dụng được chiến lược này triệt để thì VN phải có nội lực rất mạnh, một yêu cầu mà chúng ta chưa thể thoả mãn được tại thời điểm hiện nay. Nếu theo đuổi đại chiến lược biệt lập mà chúng ta buộc phải một mình đương đầu với một TQ hung hăng hiếu chiến thì rất khó để có thể đảm bảo được an ninh cho VN,đặc biệt trong bối cảnh an ninh khu vực hiện nay. Vì vậy đây là một đại chiến lược khả dĩ cho VN nhưng nhiều khả năng sẽ không phải là một sự lựa chọn đúng đắn trong lúc này.
V/Lựa chọn chiến lược nào cho Việt Nam?
Nếu có bất kì “nguyên tắc vàng” nào trong quan hệ quốc tế đối với một nước nhỏ thì có lẽ là không nên liên kết với nước lớn nào nếu không phải đối mặt với một mối đe doạ an ninh trực tiếp. Nói cách khác, một nước nhỏ chỉ nên chọn liên minh với một siêu cường và đánh đổi sự độc lập của mình khi đó là lựa chọn không thể tránh khỏi.
Trong một khu vực với một siêu cường duy nhất, việc các nước nhỏ chọn hợp tác với siêu cường này là hoàn toàn hợp lý khi siêu cường không tìm cách thôn tính các nước nhỏ. Khi đối mặt với hai siêu cường, các nước nhỏ đương nhiên nên bắt tay với bên nào có thiện chí hợp tác hơn và ít đặt ra nguy cơ về an ninh hơn. Khi cả hai siêu cường đang cạnh tranh gay gắt mà không siêu cường nào trực tiếp đe doạ an ninh của các nước nhỏ thì các nước này nên đứng về phía siêu cường có khả năng cao sẽ thắng cuộc. Mặc dù vậy, khi mà kết quả của cuộc tranh đấu giữa hai siêu cường khó dự đoán trước được trong khi siêu cường yếu hơn lại là mối đe doạ an ninh lớn hơn về lâu dài đối với các nước nhỏ thì lựa chọn khôn ngoan nhất cho những nước này là thực hiện chính sách “cân bằng động”.
Thế giới hiện nay là một thế giới hai cực (bipolar world) với Mỹ và TQ là hai siêu cường hàng đầu. Hai siêu cường này đang cạnh tranh hết sức quyết liệt để giành lấy ngôi vương ở Châu Á. Hiện nay TQ là bên yếu thế hơn nhưng trận thư hùng của thế kỷ này vẫn chưa đến hồi kết thúc. Rất khó để kết luận ngay tại thời điểm hiện nay đâu sẽ là bên thắng cuộc. Do đó, để đối phó với những thách thức an ninh hiện nay, VN nên tiếp tục kiên trì đại chiến lược đa phương vốn là kim chỉ nam cho chính sách đối ngoại của VN kể từ khi đất nước mở cửa đến giờ. Cho đến khi cục diện thế giới thay đổi một cách cơ bản và trận chiến ở Biển Đông giữa Mỹ và TQ kết thúc, đại chiến lược đa phương vẫn là con đường tối ưu nhất để VN có thể bảo vệ được lợi ích quốc gia cốt lõi của mình.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, đại chiến lược đa phương không phải không tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Yếu điểm của đường lối đaphương là sự phụ thuộc lớn vào những yếu tố nằm ngoài khả năng kiểm soát của VN như kếtquả của cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung.Nếu chúng ta theo đuổi đườnglối đa phương một cách cứng nhắc trong bối cảnh tình hình đã thay đổi, rất có thể Việt Nam sẽ buộc phải chuyển sang đại chiến lược thân Mỹ. Nhìn chung, đại chiến lược thân Mỹ không phải là lựa chọn lý tưởng nhất cho VN mà là lựa chọn bất khả kháng trước thách thức từ TQ nên nếu tránh được lựa chọn này thì chúng ta cần tránh.
Theo quan điểm của tác giả, cách tốt nhất để đảm bảo được rằng VN có thể tiếp tục đại chiến lược đa phương càng lâu càng tốt là nâng cao nội lực của bản thân và trở thành một đối tác đủ quan trọng với mọi cường quốc để luôn có những nước lớn sẵn sàng đảm bảo an ninh cho chúng ta trước bất kì mối đe doạ nào. Đây hoàn toàn không phải là một mục tiêu viển vông bởi trên thực tế, đây là điều mà Singapore đã làm được trong suốt thời gian qua.Quốc đảo này nhỏ hơn VN nhiều nhưng kể từ khi họ giành độc lập đến giờ, người Singapore chưa bao giờ bị tấn công xâm lược, dù là láng giềng của nhiều nước lớn hơn mình rất nhiều. Hai yếu tố quan trọng nhất đằng sau thành công này là chính sách ngoại giao khéo léo và nội lực mạnh. Các quân cảng của Singapore mở cửa cho tất cả hải quân của các quốc gia khác, tuy nhiên nó được thiết kế đặc biệt theo các chỉ số kỹ thuật của các chiếm hạm Mỹ. Do đó, dù Mỹ và Singapore không phải là đồng minh hiệp ước nhưng Mỹ vẫn có lợi ích rất lớn trong việc đảm bảo Singapore không rơi vào tay bất kể thế lực thù địch nào bởi ngày nào Singapore còn độc lập, ngày đó Mỹ còn một căn cứ quân sự và đối tác quốc phòng đáng tin cậy ở Châu Á. Đây là mô hình VN nên theo đuổi.
Một trong những con bài mặc cả vô cùng tiềm tàng mà VN đang có là chính sách quốc phòng “3 Không”. Trước mắt, VN cần duy trì nguyên tắc này nhưng khi đàm phán, chúng ta cần tuyên bố rõ rằng VN chỉ có thể duy trì “3 Không” trong chừng mực mà các cường quốc tạo điều kiện cho chúng ta giữ thế trung lập của mình.Nếu như TQ không muốn VN trở thành tiền đồn cho Mỹ,họ sẽ không dám gây sức ép lên chúng ta một cách thái quá. Do đó, dù nguyên tắc “3 Không” là cần thiết trong thời điểm này, chúng ta không nên giữ nó một cách cứng nhắc trong mọi hoàn cảnh mà nên dùng nó để mặc cả với các nước khác. Đây chính là vũ khí răn đe của một nước nhỏ: nếu anh không để tôi yên, tôi sẽ buộc phải liên minh với đối thủ của anh.
Hơn nữa, nếu tình hình tiếp tục diễn biến theo chiều hướng bất lợi cho VN, các nhà lãnh đạo ở Hà Nọi nên xem xét mở cửa quân cảng Cam Ranh cho hải quân một số nước có quan hệ quốc phòng thân thiết với VN. Mục đích của việc này là tạo thêm các mối gắn kết về lợi ích giữa VN và các cường quốc trong khu vực. Điều này sẽ tạo động lực để họ bảo vệ lợi ích chính đáng của VN, dù chúng ta có là đồng minh chính thức của họ hay không.
Bài học lớn thứ hai từ Singapore là để giữ được độc lập chủ quyền thì một quốc gia phải có nội lực mạnh. Tuy Singapore là một nước nhỏ nhưng lại có nền kinh tế phát triển bậc nhất ở Châu Á. Họ có một bộ máy quan chức tương đối trong sạch và hiệu quả. Nền chính trị dân chủ của Singapore không đi theo mô hình của Mỹ hay phương Tây nhưng vẫn ổn định trong suốt những thập kỷ qua. VN không phải là Singapore nên chúng ta sẽ không thể bắt chước y chang nhưng gì họ đã làm và hi vọng kết quả cũng sẽ được như họ. Tuy nhiên bài học ở đây rất rõ ràng, muốn đối ngoại được tốt thì trước tiên đối nội phải tốt, muốn đối nội được tốt phải có bộ máy chính trị tốt. Đối với VN, điều này đồng nghĩa với việc phải quyết liệt chiến đấu với nạn quan liêu và tham nhũng, hạn chế phân hoá giàu nghèo trong xã hội và đồng thời nâng cao tính trạnh canh của nền kinh tế VN bằng cách đẩy mạnh tư nhân hoá và tái cơ cấu nền kinh tế theo xu hướng của thời đại. Đây sẽ không phải là mục tiêu có thể đạt được trong một sớm một chiều, tuy nhiên là điều hết sức cần thiết nếu chúng ta muốn đảm bảo được an ninh quốc gia và tiếp tục duy trì được đường lối đối ngoại đa phương hiện nay.
Trong tương lai xa hơn, khi VN đã có nội lực đủ mạnh, chúng ta thậm chí có thể tiến thêm một bước để trở thành “sức nặng quyết định” (decisive weight) trong quan hệ Mỹ-Trung. Chiến lược sức nặng quyết định sẽ là dạng chủ động nhất của đại chiến lược đa phương. Khi đó VN sẽ không còn chi là một quân bài để các cường quốc mặc cả với nhau mà sẽ trở thành một thế lực mang tính cân bằng và điều hoà trong quan hệ Mỹ-Trung. Khi Mỹ quá lấn lướt TQ, VN sẽ hợp lực với người láng giềng của mình để tạo thế cân bằng. Khi TQ có tham vọng bá quyền, chúng ta sẽ bắt tay với Mỹ để kiềm chế TQ. VN không có đủ điều kiện thuận lợi để trở thành một cường quốc nhưng chúng ta hoàn toàn có thể trở thành một công dân tích cực của thế giới, một lực lượng vì hoà bình khu vực. Đó mới là cách lý tưởng nhất để chúng ta bảo đảm an ninh cho chính mình và cho các thế hệ mai sau./.Ngô Di Lân là Nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Brandeis, Hoa Kỳ. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của cá nhân tác giả.
[http://nghiencuuquocte.org/2017/03/04/dai-chien-luoc-cho-viet-nam-trong-tk-21/]